Luận văn Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh ngân hàng phát triển Phú Thọ

Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ đã đạt được những thành công nhất định đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và địa phương. Bên cạnh đó chất lượng hoạt động cho vay đầu tư (các dự án đầu tư trong nước) cũng đã bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng tới sự an toàn và phát triển bền vững của hệ thống NHPT. Hiện nay tình hình nợ quá hạn, lãi phải thu chưa thu được của hoạt động cho vay đầu tư đang có xu hướng gia tăng về số lượng dự án và trong từng dự án.

Tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng nợ quá hạn đang có xu hướng tăng tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ để đề xuất những giải pháp thiết thực, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đầu tư phát triển là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Là cán bộ tín dụng với những kiến thức được học tập cùng kinh nghiệm thực tiễn, tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sỹ với mục tiêu đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động cho vay đầu tư trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác này tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ.

pdf 115 trang Bách Nhật 04/04/2025 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh ngân hàng phát triển Phú Thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh ngân hàng phát triển Phú Thọ

Luận văn Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh ngân hàng phát triển Phú Thọ
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 NGUY TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI 
 --------------------------------------- 
 ỄN MẠNH C 
 NGUYỄN MẠNH CƯỜNG 
 Ư
 ỜNG
QU
ẢN TRỊ KINH DOANH
 CHUYÊN NGÀNH
 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
 TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC 
 TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ 
 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC 
 QUẢN TRỊ KINH DOANH 
 KHOÁ
 2010 
 PHÚ THỌ - 2013 
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI 
 --------------------------------------- 
 NGUYỄN MẠNH CƯỜNG 
 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
 TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC 
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN PHÚ THỌ 
 Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh 
 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC 
 QUẢN TRỊ KINH DOANH 
 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN LONG 
 PHÚ THỌ - 2013 
 LỜI MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài. 
 Ngân hàng phát triển Việt Nam (Tên giao dịch là The Vietnam Development 
Bank - VDB) được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 
19/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Quỹ hỗ trợ phát triển để 
thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT), Tín dụng Xuất khẩu của 
Nhà nước và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2006. Sự chuyển đổi mô hình 
và tính chất hoạt động phù hợp với quá trình phát triển, hội nhâp của nền kinh tế đất 
nước vào kinh tế thế giới trong tình hình mới. 
 Chi nhánh NHPT Phú Thọ - đơn vị trực thuộc Ngân hàng phát triển Việt Nam 
(NHPT) là một trong những trung gian tài chính, kênh dẫn vốn lớn thực hiện huy 
động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín 
dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng 
trưởng bền vững và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý. Hoạt động tín dụng 
Ngân hàng nói chung tiềm ẩn rủi ro, luôn đòi hỏi phải nâng cao chất lượng trong 
hoạt động của mình, đối với Chi nhánh NHPT Phú Thọ không nằm ngoài xu thế đó 
và thực tế trong thời gian qua đã xuất hiện những khoản nợ vay khó đòi, một phần 
xuất phát từ đặc trưng của bản thân NHPT là thực hiện chính sách tín dụng của Nhà 
nước đầu tư vào những lĩnh vực, những ngành nghề khó khăn mà các NHTM ít 
quan tâm vì các lĩnh vực, ngành nghề này tạo ra ít lợi nhuận nhưng lại chứa đựng 
nhiều rủi ro, điều này đòi hỏi Chi nhánh NHPT Phú Thọ, NHPT Việt Nam luôn 
luôn phải nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Cùng với đó 
môi trường kinh doanh biến động, đặc biệt là thời điểm hiện nay nền kinh tế bất ổn, 
dấu hiệu phục hồi chậm và Chính phủ tiếp tục đề ra các giải pháp để ổn định nền 
kinh tế vĩ mô, các quy định, chế độ của Ngân hàng phát triển từ khi thành lập cơ 
bản đã ban hành đầy đủ, tuy nhiên trong quá trình thực hiện cần hoàn thiện hơn ... 
 1 
nên phần nào cũng ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển (ĐTPT) và 
tín dụng xuất khẩu (XK) của Nhà nước. 
 Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ 
đã đạt được những thành công nhất định đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh 
tế của đất nước và địa phương. Bên cạnh đó chất lượng hoạt động cho vay đầu tư 
(các dự án đầu tư trong nước) cũng đã bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng tới sự an 
toàn và phát triển bền vững của hệ thống NHPT. Hiện nay tình hình nợ quá hạn, lãi 
phải thu chưa thu được của hoạt động cho vay đầu tư đang có xu hướng gia tăng về 
số lượng dự án và trong từng dự án. Tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng nợ quá 
hạn đang có xu hướng tăng tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ để đề xuất những giải 
pháp thiết thực, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đầu tư 
phát triển là một yêu cầu cấp bách hiện nay. Là cán bộ tín dụng với những kiến thức 
được học tập cùng kinh nghiệm thực tiễn, tôi chọn đề tài “Các giải pháp nâng cao 
chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ” 
làm đề tài luận văn thạc sỹ với mục tiêu đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động 
cho vay đầu tư trong thời gian qua và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất 
lượng của công tác này tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ. 
 2. Mục đích nghiên cứu. 
 Nghiên cứu hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và ý nghĩa của 
nó đối với sự phát triển kinh tế đất nước. 
 Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân hoạt động tín dụng đầu tư phát 
triển của nhà nước trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. 
 Các giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà 
nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ. 
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 
 Hoạt động Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú 
Thọ. Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tại 
Chi nhánh NHPT Phú Thọ từ khi đi vào hoạt động (01/07/2006) đến hết năm 2012. 
 2 
 4. Phương pháp nghiên cứu. 
 Phương pháp luận cơ bản dựa trên nền tảng của phương pháp duy vật biện 
chứng kết hợp với phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để làm rõ 
thực trạng chất lượng hoạt động cho vay đầu tư tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ đồng 
thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp phù hợp. 
 5. Kết cấu của luận văn. 
 Kết cấu luận văn bao gồm 03 phần chính, bao gồm: 
 Chương I: Cơ sở lý luận về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. 
 Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại 
Chi nhánh NHPT Phú Thọ. 
 Chương III: Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển của 
Nhà nước tại Chi nhánh NHPT Phú Thọ. 
 3 
 CHƯƠNG I 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ NƯỚC 
 1.1 Các quan điểm về đầu tư phát triển. 
 1.1.1 Trường phái Keynes và các nhà kinh tế học Mỹ. 
 John May nard Keynes (1884 - 1946) [28] là nhà kinh tế học người Anh, giáo 
sư trường đại học Cambridge, một nhà hoạt động xã hội, một chuyên gia trong lĩnh 
vực tài chính và lưu thông tiền tệ, thống đốc ngân hàng Anh, cố vấn kinh tế Chính 
phủ Anh về ngân khố quốc gia, chủ bút tạp chí Nhà kinh tế. 
 Đầu tư, theo lý thuyết của Keynes là phần tăng thêm giá trị của tư bản trang bị 
do kết quả hoạt động sản xuất trong thời kỳ nhất định. Đó là phần thu nhập không 
được chi vào việc tiêu dùng. Như vậy, đầu tư là kết quả thái độ chung của các nhà 
kinh doanh. Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ đi phần đã hao mòn 
trong quá trình sản xuất, còn nếu trừ đi phần đó thì có đầu tư thuần tuý (hoặc đầu tư 
ròng). Nói khác đi đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi hao mòn tài sản cố định. 
 Theo Keynes, đầu tư có ảnh hưởng lớn đến việc làm, giữa đầu tư và thu nhập 
có mối quan hệ gắn bó với nhau. Quan hệ giữa tăng thu nhập với gia tăng đầu tư (cụ 
thể là sự gia tăng đầu tư sẽ làm cho thu nhập gia tăng lên bao nhiêu lần) đó là số 
nhân đầu tư. 
 Keynes cho rằng, mỗi sự gia tăng của đầu tư sẽ thu hút thêm công nhân vào 
làm việc tức là cầu thêm về lao động, cầu thêm về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu 
dùng, từ đó làm cho thu nhập của công nhân tăng lên. Thu nhập tăng lên là tiền đề 
cho việc gia tăng của đầu tư. Như vậy trong quan hệ đó có tác dụng mang tính dây 
truyền: Tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập mới làm tăng đầu tư mới, tăng 
đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới (làm phóng đại thu nhập lên nhiều lần). 
 Keynes cho rằng đầu tư của Chính phủ có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế: 
Trước tiên là giải quyết việc làm, đó là đầu tư cho sự phát triển. Keynes khẳng định 
cần có Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường (điều này trái ngược với 
 4 
quan điểm của trường phái của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và tân cổ 
điển về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường). 
 Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân gây thiếu hụt đầu tư Keynes đưa ra 
những kiến nghị mà tập trung nhất là sử dụng ngân sách Nhà nước (NSNN) để kích 
thích đầu tư tư nhân và bản thân Nhà nước cần chủ động đầu tư (ĐTPT) cụ thể là: 
 Nhà nước cần thực hiện tăng thêm những đơn đặt hàng đối với các công ty, 
trước hết với các công ty lớn về các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất 
hàng tiêu dừng... đó là biện pháp tăng đầu tư về tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và 
cầu về sức lao động. 
 Tăng cường trợ cấp tài chính tín dụng từ ngân sách để đảm bảo tỷ suất lợi 
nhuận và lợi nhuận cho các tổ chức độc quyền, cũng có nghĩa là đảm bảo hiệu quả 
đầu tư ở mức độ có lợi cho các doanh nghiệp (DN), nhất là các DN lớn để họ yên 
tâm đầu tư. Các biên pháp Nhà nước cần áp dụng đó là giảm lãi suất, thực hiện tín 
dụng ưu đãi với những chương trình "trọng điểm" giảm thuế với các DN nhằm 
khuyến khích đầu tư. 
 Thực hiện "lạm phát có mức độ", Ông cho rằng để tăng đầu tư bằng việc giảm 
lãi suất cần phải tăng số lượng tiền tệ vào lĩnh vực lưu thông, thực hiện "lạm phát có 
mức độ" đó là biện pháp để kích thích thị trường và không có gì nguy hiểm khi nền 
kinh tế đạt trạng thái cân bằng ứng với sản lượng và việc làm cao hơn thì lạm phát 
tự động dừng lại. 
 Cần tăng thuế để điều tiết một phần thu nhập trong dân cư đưa vào ngân sách 
để đầu tư, thực hiện phát hành công trái để bổ sung cho ngân sách. Việc tăng thu 
của ngân sách sẽ tạo điều kiện tăng chi cho mục đích ĐTPT. 
 Thực hiện khuyến khích mở rộng các hình thức đầu tư, các lĩnh vực đầu tư. 
theo Ông đầu tư vào lĩnh vực nào cũng tốt vì như vậy sẽ giải quyết được việc làm 
có thêm thu nhập, chống được khủng khoảng và thất nghiệp. 
 Bổ sung vào lý thuyết "số nhân" của J.M. Keynes [24], các nhà kinh tế Mỹ 
đưa ra lý thuyết "gia tốc" [27]. Lý thuyết này không những nghiên cứu các quyết 
định đầu tư, mà còn chứng minh mối liên hệ giữa gia tăng sản lượng làm cho đầu tư 
 5 
tăng lên và sau đó đầu tư tăng lên sẽ gia tăng sản lượng với nhịp độ nhanh hơn. Sự 
tăng nhanh tốc độ đầu tư so vối sự thay đổi về sản lượng nói lên ý nghĩa của nguyên 
tắc "gia tốc". Theo lý thuyết "gia tốc", để vốn đầu tư tiếp tục tăng lên thì sản lượng 
bán ra phải tăng lên liên tục. Nhưng Lôgích của vấn đề là ở chỗ, số lượng sản phẩm 
bán ra ngày hôm nay là kết quả đầu tư của thời kỳ trước, năm trước. 
 Thực tế của các nưóc Châu Á đã chứng minh lý thuyết trên. Cách đây vài ba 
thập kỷ, Châu Á không được biết đến với tư cách là vùng kinh tế có tăng trưởng. 
Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật và mở rộng giao lưu quốc tế đã làm thay 
đổi dần bộ mặt của các nước và một số lãnh thổ trong vùng. Cơn lốc của sự tăng 
trưỏng kinh tế của các nước phát triển đã tràn đến Châu Á để tìm thị trường mới và 
từ đó Châu Á bắt đầu được biết đến như một vùng kinh tế mới. Khi nền kinh tế thế 
giới dao động ở tốc độ tăng trưởng 3 - 5% mỗi năm thì các nước và các lãnh thổ 
đang phát triển như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, từ điểm xuất phát 
thấp, tài nguyên nghèo nàn, thị trường nội địa nhỏ, đã trở thành những nước và lãnh 
thổ công nghiệp mới xuất phát từ nông nghiệp. Đặc trưng của các nơi này là quá 
trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, từ nông - 
công nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. 
 Sở dĩ đạt được sự phát triển thần kỳ đó vì các nơi này đã khai thác một cách 
tối đa lợi thế so sánh. Một chiến lược đầu tư cao được thực hiện trong những năm 
đầu công nghiệp hóa, có nơi đạt 40% GDP như Singapore, các nơi khác còn lại trên 
30% GDP. 
 Tóm lại: Có thể nói đầu tư là tổng thể các chi phí phản ảnh quá trình bỏ vốn 
vào tái sản xuất mở rộng nó bao gồm đầu tư để phát triển vốn cố định, tăng vốn lưu 
động sản xuất và vốn lưu thông. Như vậy bản thân đầu tư đã bao hàm cả sự phát 
triển còn ĐTPT chỉ là cụm từ nhằm nhấn mạnh thêm. 
 1.1.2 Quan điểm của các nhà kinh tế học Việt Nam [14] 
 - Đầu tư theo nghĩa rộng có thể hiểu là quá trình bỏ vốn (bao gồm cả tiền, 
nguồn lực và công nghệ) để đạt được mục đích (hay mục tiêu) nhất định [29]. Đó có 
thể là những mục tiêu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... 
 6 
 - Đầu tư theo nghĩa hẹp: 
 + Thứ nhất, có thể hiểu đầu tư là việc đưa một lượng vốn nhất định vào quá 
trình hoạt động kinh tế nhằm thu lại được một lượng lớn hơn sau một khoảng thời 
gian nhất định. Điều này sẽ giúp chúng ta phân biệt được hoạt động đầu tư và các 
động nhân đạo khác. 
 Cần phân biệt các hoạt động đầu tư với các hoạt động bỏ tiền nhằm duy trì 
hoạt động thường xuyên của các tổ chức. Các tổ chức phải chi phí một khoản tiền 
rất lớn cho các hoạt động mang tính thường xuyên của đơn vị nhằm đảm bảo cho 
quá trình sản xuất được duy trì. Hoạt động đó có thể gọi là hoạt động sản xuất, kinh 
đoanh(SX-KD). Còn hoạt động đầu tư nhằm mục đích nâng cao năng lực sản xuất 
(cả về số lượng và chất lượng) cũng như tạo ra các năng lực sản xuất mới. 
 + Thứ hai, có thể hiểu khái niệm đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng. 
Đầu tư thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra 
năng lực sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển 
sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của mọi nền kinh tế và là 
cơ sở của sự phát triển tăng trưởng kinh tế. 
 Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn được biểu hiện dưới những mục tiêu 
kinh tế - xã hội cụ thể. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư luôn phải vạch ra được 
các mục tiêu cụ thể. Xác định cụ thể mục tiêu là nhân tố đảm bảo cho hoạt động đầu 
tư đem lại hiệu quả cao. 
 Bản chất cơ bản của hoạt động đầu tư: Là quá trình bỏ vốn (tiền, nhân lực, 
nguyên liệu, công nghệ...) vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh (SX-KD) và 
dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. 
 - Có hai hình thức đầu tư: Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. 
 + Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại 
hiệu quả cao cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn 
không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được 
biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: mua cổ phiếu, tín phiếu, tín dụng.... 
Đây là loại hình đầu tư khá phát triển hiện nay. Những người có vốn hoặc họ không 
 7 
biết kinh doanh hoặc họ không thích nghề này và không có điều kiện tham gia hoạt 
động đầu tư trực tiếp đã lựa chọn hình thức gián tiếp. Chính phủ của một số nước 
trên thế giới đã thông qua các chương trình tài chính cho Chính phủ của một số 
nước khác vay với một lãi suất ưu đãi cũng là một hình thức đầu tư gián tiếp. Đầu 
tư gián tiếp có thể là đầu tư tài chính với sự tham gia của các tổ chức kinh doanh 
tiền tệ. 
 + Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào 
hoạt động và quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này có thể thực hiện dưới 
nhiều hình thức khác nhau như: Hợp đồng, liên doanh, các công ty cổ phần, công ty 
trách nhiệm hữu hạn... Đầu tư trực tiếp có thể chia làm hai nhóm: Đầu tư chuyển 
dịch và Đầu tư phát triển. 
 Đầu tư chuyển dịch là sự đầu tư có chuyển dịch vốn đầu tư từ một người này 
sang người khác theo cơ chế thị trường. Đó chính là việc mua lại cổ phần trong một 
DN. Việc chuyển dịch sở hữu các cổ phần trong các DN không làm thay đổi vốn 
của DN, nhưng có khả năng tạo ra một năng lực quản lý mới, năng lực xã hội mới. 
 Tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta hiện 
nay là một hình thức đầu tư chuyển dịch. Quyền sở hữu Nhà nước toàn bộ tài sản 
của DN sẽ từng bước chuyển sang các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện cho 
các DN áp dụng các phương thức quản lý mới. 
 Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Người có vốn đầu 
tư (cá nhân, tập thể hay nhà nước) gắn liền với hoạt động kinh tế của đầu tư nhằm 
nâng cao năng lực của các cơ sở sản xuất cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng 
lực sản xuất mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo ra 
việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế phát triển. 
 Đầu tư từ nguồn vốn của Nhà nước là quá trình Nhà nước sử dụng nguồn vốn 
NSNN đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội. Phần đầu tư này chiếm vị trí đặc biệt 
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. 
 Xét về mặt tính chất đầu tư gián tiếp hoặc đầu tư chuyển dịch không tự nó vận 
động và tồn tại nếu như không có ĐTPT. Do đó Để có thể đạt được quy mô lớn nếu 
 8 

File đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_giai_phap_nang_cao_chat_luong_tin_dung_dau_tu_p.pdf