Luận án Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975

Được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, được kết tinh, lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, tinh thần yêu nước trở thành giá trị cơ bản và bền vững nhất trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam, trở thành nguồn “năng lực nội sinh” không bao giờ cạn và là vũ khí tinh thần mà vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, phần rất quan trọng tùy thuộc vào việc chúng ta phát huy hay quên lãng thứ vũ khí tinh thần ấy.

Ngày 11/6/1948, thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, chính thức phát động PTTĐYN trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Từ đây, PTTĐ ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng đã thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ, thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, trí tuệ của mình góp phần lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Liên tục trong hơn 70 năm qua, trong mỗi chặng đường phát triển của cách mạng, PTTĐYN như những làn sóng trào dâng mang theo khí thế hào hùng của dân tộc, tạo động lực đoàn kết toàn dân đấu tranh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đặc biệt là từ khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 07-NQ/TW (26/01/1961) Về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, PTTĐYN ở miền Bắc có nhiều bước tiến mạnh mẽ. Với sự đa dạng về nội dung, sự phong phú về hình thức, gắn với nhiều hành động thiết thực, PTTĐYN đã đi vào lịch sử như một minh chứng thuyết phục cho sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí tự lực tự cường, trí thông minh, niềm đam mê sáng tạo và cống hiến của quân dân miền Bắc, góp phần xứng đáng vào quá trình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một hậu phương chiến lược.

 

docx 206 trang kiennguyen 7640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975

Luận án Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO	 BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
ĐẶNG THỊ AN
PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIỀN BẮC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1961-1975
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI, NĂM 2022
HÀ NỘI, NĂM 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Họ và tên tác giả luận án
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO	 BỘ QUỐC PHÒNG
VIỆN LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM
ĐẶNG THỊ AN
PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIỀN BẮC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC NHỮNG NĂM 1961-1975
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 9 22 90 13
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
 1. TS Dương Đình Lập
2. PGS.TS Hồ Xuân Quang 
HÀ NỘI, NĂM 2022
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Họ và tên tác giả luận án
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, công trình này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án có nguồn gốc rõ ràng. Những đánh giá, kết luận của luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
	Tác giả luận án
	Đặng Thị An
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của rất nhiều cá nhân, tập thể ở trong và ngoài cơ sở đào tạo. Bởi lẽ đó, tôi xin bày tỏ và gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến:
 	- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng; các thầy giáo, cô giáo, các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, các Phòng, Ban, đặc biệt là Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ; Phòng Thông tin -Tư liệu, Ban Sau Đại học nay thuộc Phòng Kế hoạch, quản lý khoa học và đào tạođã dành cho tôi sự quan tâm, giúp đỡ, cả sự động viên thường xuyên và kịp thời.
	- Tập thể hướng dẫn khoa học là: Tiến sĩ Dương Đình Lập và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Xuân Quang đã đồng hành cùng tôi trong suốt thời gian nghiên cứu, cho tôi nhiều chỉ dẫn, đóng góp và những định hướng khoa học có giá trị.
- Các cán bộ, nhân viên Thư viện Quốc gia, Thư viện Quân đội, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Sử học, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III đã tạo điều kiện cho tôi được tiếp cận nguồn tài liệu phong phú, có giá trị phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
- Cán bộ, chiến sĩ, các anh, chị công tác tại Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng; các anh chị em đang theo học nghiên cứu sinh các khóa tại Viện đã thường xuyên chia sẻ thông tin và khích lệ tôi trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu.
- Các Thầy, Cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp đang công tác tại Khoa Lý luận Chính trị-Luật và Quản lý Nhà nước, Trường Đại học Quy Nhơn đã động viên và chia sẻ công việc, giúp tôi có thể tập trung nhiều thời gian để hoàn thành chương trình đào tạo và luận án tiến sĩ.
- Gia đình, người thân đã tin tưởng, chia sẻ những khó khăn, tạo nhiều điều kiện, cổ vũ, động viên giúp tôi kiên trì và an tâm học tập, nghiên cứu trong thời gian qua.
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Tác giả luận án
 Đặng Thị An
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
4. Nguồn tài liệu 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
6. Đóng góp mới của luận án 
7. Kết cấu của luận án 
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 
 1.1.1. Các công trình nghiên cứu về thi đua ở các nước XHCN
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
1.2. Nhận xét và hướng nghiên cứu của luận án 
1.2.1. Nhận xét
1.2.2. Hướng nghiên cứu của luận án
Chương 2. PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIÊN BẮC TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1965 
2.1. Cơ sở hình thành phong trào thi đua yêu nước 
2.1.1. Cơ sở lý luận về thi đua yêu nước 
2.1.2. Thực tiễn phong trào thi đua yêu nước trước năm 1961 
2.2. Bối cảnh lịch sử và sự phát triển của phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc từ năm 1961 đến năm 1965 
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng về thi đua yêu nước
2.2.2. Một số phong trào thi đua tiêu biểu
Tiểu kết chương 2 
Chương 3. PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC Ở MIỀN BẮC TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975 (81)
3.1. Bối cảnh lịch sử mới và yêu cầu đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
3.1.1. Bối cảnh lịch sử mới và nhiệm vụ của miền Bắc 
3.1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước 
3.2. Một số phong trào thi đua tiêu biểu 
3.2.1. Phong trào “Ba sẵn sàng” 
3.2.2. Phong trào “Ba đảm đang” 
Tiểu kết chương 3 
Chương 4. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 
4.1. Nhận xét 
4.1.1. Đặc điểm 
4.1.2. Ý nghĩa 
4.2. Một số kinh nghiệm 
4.2.1. Tăng cường và thống nhất sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội trong việc phát động và tổ chức thi đua yêu nước hiệu quả, thiết thực 
4.2.2. Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, động viên khí thế thi đua, đặc biệt chú trọng việc khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thi đua yêu nước 
4.2.3. Căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách mạng để xác định mục đích, nội dung, hình thức thi đua thích hợp 
4.2.4. Lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cá nhân và tiến hành thi đua thường xuyên, liên tục trên cơ sở lấy lòng yêu nước làm gốc, xem công việc hàng ngày là nền tảng của thi đua 
4.2.5. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, phổ biến sáng kiến, kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển hình tiên tiến sau mỗi đợt thi đua 
Tiểu kết chương 4 
KẾT LUẬN 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ 
CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
PHỤ LỤC 
1
1
2
3
3
4
5
5
6
6
6
8
21
21
25
26
26
26
30
38
38
44
79
81
81
81
86
92
92
119
136
137
137
137
144
151
151
154
157
159
161
164
165
168
169
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
 STT
VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ
01
BCHQST
Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
02
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
03
CHXHCNVN
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
04
CTQG
Chính trị quốc gia
05
CTQG-ST
Chính trị quốc gia-Sự thật
06
ĐLDT
Độc lập dân tộc
07
HTX
Hợp tác xã
08
TĐYN
Thi đua yêu nước
09
PTTĐ
Phong trào thi đua
10
PTTĐYN
Phong trào thi đua yêu nước
11
PTTĐ XHCN
Phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa
12
Nxb
Nhà xuất bản
13
QĐND
Quân đội nhân dân
14
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, được kết tinh, lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, tinh thần yêu nước trở thành giá trị cơ bản và bền vững nhất trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam, trở thành nguồn “năng lực nội sinh” không bao giờ cạn và là vũ khí tinh thần mà vận nước thịnh hay suy, mất hay còn, phần rất quan trọng tùy thuộc vào việc chúng ta phát huy hay quên lãng thứ vũ khí tinh thần ấy.
Ngày 11/6/1948, thay mặt Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, chính thức phát động PTTĐYN trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Từ đây, PTTĐ ái quốc do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng đã thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ, thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tài năng, trí tuệ của mình góp phần lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Liên tục trong hơn 70 năm qua, trong mỗi chặng đường phát triển của cách mạng, PTTĐYN như những làn sóng trào dâng mang theo khí thế hào hùng của dân tộc, tạo động lực đoàn kết toàn dân đấu tranh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đặc biệt là từ khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 07-NQ/TW (26/01/1961) Về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước đảm bảo hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961 và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, PTTĐYN ở miền Bắc có nhiều bước tiến mạnh mẽ. Với sự đa dạng về nội dung, sự phong phú về hình thức, gắn với nhiều hành động thiết thực, PTTĐYN đã đi vào lịch sử như một minh chứng thuyết phục cho sức mạnh của lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, ý chí tự lực tự cường, trí thông minh, niềm đam mê sáng tạo và cống hiến của quân dân miền Bắc, góp phần xứng đáng vào quá trình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một hậu phương chiến lược.
Từ sau ngày đất nước thống nhất cho đến nay, quán triệt tinh thần “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua” Đảng và Nhà nước tiếp tục duy trì, phát huy sức mạnh của lòng yêu nước, chú trọng vào việc phát động, tổ chức các PTTĐYN toàn diện, thiết thực, hiệu quả. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới-cuộc thi đua vĩ đại chống lại “những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ tốt tươi” của dân tộc vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, TĐYN không chỉ là phương pháp cách mạng mà tiếp tục là nhiệm vụ chính trị căn bản của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. PTTĐYN đã bước sang một giai đoạn mới với những nội dung mới, ngày càng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Qua các PTTĐYN đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình tiên tiến trong cả nước. TĐYN thực sự đã mang lại những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tình hình trong nước, quốc tế và khu vực hiện có nhiều chuyển biến mau lẹ chứa đựng nhiều cơ hội và thách thức có tác động trực tiếp đến quá trình phát động, tổ chức các PTTĐYN. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, TĐYN hiện vẫn đang đứng trước nhiều tồn tại, yếu kém cần thiết phải được khắc phục.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề này cho thấy, đã có nhiều tác giả tiếp cận, tìm hiểu về PTTĐYN nói chung, PTTĐYN ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về PTTĐYN ở miền Bắc một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc. Việc nghiên cứu các PTTĐYN ở miền Bắc trong những năm 1961-1975 trên các phương diện: nhân tố tác động, quá trình hình thành, phát triển, kết quảtừ đó đánh giá đặc điểm, ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu không chỉ là cơ sở cho việc tái hiện chân thực các PTTĐYN với những điển hình tiêu biểu mà còn là cơ sở khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng, sự vận dụng linh hoạt của các cấp ủy, đoàn thể ở địa phương; giúp làm sáng tỏ vị trí, vai trò của miền Bắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của một hậu phương chiến lược. Kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, thực hành thi đua tích cực và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
 Xuất phát sự quan tâm đặc biệt dành cho các PTTĐYN cùng với sự nhận thức đầy đủ về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của vấn đề, nghiên cứu sinh quyết định chọn đề tài: “Phong trào thi đua yêu nước ở miền Bắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước những năm 1961-1975” làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên c ...  ngày 08/3/1967 của Hội đồng Chính phủ Về tăng cường lực lượng lao động nữ trong các cơ quan xí nghiệp nhà nước 
Gồm 3 phần:
I. Nhận định tình hình lao động nữ trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước thời gian qua
II.Phương hướng, nhiệm vụ và biện pháp tăng cường lực lượng lao động nữ trong các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trong thời gian tới
III. Một số điểm chủ yếu về lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện
5
Thông tư liên bộ Số 04/TT-LB, ngày 01/5/1968 của Liên Bộ Lao động-Nội vụ-Ủy ban Kế hoạch nhà nước Giải thích, hướng dẫn vấn đề tăng cường và sử dụng hợp lý lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước trong Nghị quyết 31/CP ngày 8/3/1967 của Hội đồng Chính phủ
 Gồm 3 phần:
I. Một số nguyên tắc cơ bản để thực hiện việc tăng cường và sử dựng hợp lý lượng lao động phụ nữ trong các cơ quan, xí nghiệp nhà nước
II. Những nội dung cơ bản và biện pháp chủ yếu
III. Tổ chức chỉ đạo thực hiện
Nguồn: [123, tr.163-238]
Phụ lục 4
DANH SÁCH MỘT SỐ CHIẾN SĨ ĐẠT DANH HIỆU BA NHẤT
STT
HỌ TÊN
ĐƠN VỊ
GHI CHÚ
01
Vũ Văn Thuyết
Đại đội 2 Bộ binh 
Thành tích nổi bật: đạt loại giỏi ở tất cả các hình thức bắn : có bệ, không bệ, bắn bia “thằng còm”, các môn lựu đạn, đâm lê, bộc phá, công sựđều đạt loại khá.
02
Lê Đại Hiệp
Đại đội 4
18 tuổi đời, 8 tháng tuổi quân đã trở thành chiến sĩ Ba nhất; là học sinh lớp 10, xin nhập ngũ, viết đơn tham gia phong trào tình nguyện vượt mức kế hoạch xây dựng quân đội, ham học hỏi, sáng tạo,có thành tích làchiến sĩ giỏi về kỹ thuật, kỷ luật tốt.
03
Phạm Văn Sức
Nhập ngữ năm 1959 ở đơn vị bộ binh thuộc quân khu Tả ngạn, sau đó chuyển về Binh chủng công binh (5/1961)
Là một chiến sĩ có tinh thần, tác phong gương mẫu trong mọi sinh hoạt, công tác cũng như học tập., có ưu điểm nổi bật là không chịu lùi bước trước khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, có sáng kiến đưa năng suất chôn mìn nhanh hơn trước gấp ba lần và so với chỉ tiêu binh chủng đề ra thì đạt loại giỏi.
04
Mai Văn Thám
Đại đội 16 Pháo binh (Đoàn Vinh Quang)
Là một pháo thủ ưu tú, một anh nuôi tận tình, gương mẫu trong việc chấp hành điều lệnh, là người gần gũi và hết lòng giúp đỡ đồng chí
05
Đỗ Xuân Hoành
Chiến sĩ quan thông (quan trắc và thông tin)
Một thủy thủ lành nghề và dũng cảm, được bầu là chiến sĩ thi đua xuất sắc trong bộ đội hải quân và trong ĐH liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quân tháng 7 năm 1961; được Hồ Chủ tịch và Ủy ban Thường vụ Quốc hội tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba.
06
Vũ Văn Thơ
Chiến sĩ Đại đội 6, Đoàn Quyết Thắng
Chiến sĩ mẫu mực về thi hành điều lệnh
07
Đinh Thị Cận
Dân quân Tả ngạn
Là nữ dân quân vừa giỏi về bắn súng, giỏi cả trong sản xuất, và là một xã viên hăng hái nhất trong thôn.
	Nguồn: [Chiến sĩ Ba nhất (1962), Nxb QĐND, Hà Nội, tr.5-46]
Phụ lục 5
MỘT SỐ GƯƠNG ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN 
TRONG PHONG TRÀO PHỤ NỮ “BA ĐẢM ĐANG”
STT
TẬP THỂ/ CÁ NHÂN
DANH HIỆU ĐƯỢC PHONG TẶNG
CHÚ THÍCH
1
Đội 609 thuộc tổng cục Đường sắt
Huân chương lao động hạng 3; 32 Bằng khen của các cấp; 35 lá cờ thưởng thi đua. Được Chính phủ và Quốc hội tuyên dương đơn vị anh hùng và thưởng Huân chương lao động hạng 2 ngày 7/6/1972
Đội gồm 143 người (140 nữ), thực hiện nhiệm vụ cứu chữa, đảm bảo giao thông đường sắt, bên cạnh còn tham gia công tác đặt đường, chèn đường của các đơn vị chuyên nghiệp.
2
Nữ anh hùng giao thông vận tải Đinh Thị Thu Hiệp
4 năm được bình bầu danh hiệu Chiến sĩ thi đua; Huân chương lao động hạng 3; 3 Bằng khen của Tổng cục tiền phương. Ngày 7/6/1972 được Chính phủ và Quốc hội tuyên dng Anh hùng giao thông vận tải. 
Sinh năm 1946 tại xã Viên Hòa, huyện Minh Hòa, tỉnh Quảng Bình. Trung đội trưởng Đại đội 735 đội 73 thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước.
3
Nhà hộ sinh Khu Hai Bà
Được xếp vào loại thứ 2 của ngành Y tế Thủ đô; Được Thành hội Phụ nữ Hà Nội khen thưởng
Còn gọi là nh hộ sinh Cây đa nhà bò, nằm trong khu vực bắn trong cả hai cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai
4
Đào Thị Thuận
Huy hiệu của Hồ Chủ tịch; Bằng khen của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Ủy viên Ban Đại biểu phụ nữ Tiểu khu Tiến Bộ, khu phố Lê Chân, Hải Phòng.
5
Phụ nữ xã Hùng Vương
Huân chương kháng chiến hạng ba
Thuộc huyện An Hải, ngoại thành Hải Phòng; làm tốt công tác tổ chức sản xuất chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong điều kiện máy bay địch bắn phá ác liệt.
6
Khoa Sản, bệnh viện A, Vĩnh Linh
Được công nhận là tổ đội lao động XHCN (trong đó có 2 chiến sĩ thi đua và 8 lao động tiên tiến)
Được thành lập năm 1972, gồm 11 chị em phục vụ (9 chị có con nhỏ, hai chị có thai) nhưng đoàn kết, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ.
7
Đơn vị 551-Thanh niên xung phong Hà Tĩnh
2 Huân chng lao động hạng nhất, 1 Huân chương lao động hạng hai; 12 lá cờ; 236 bằng khen của Chính phủ; 225 bằng khen của Bộ và Ủy ban tỉnh tặng đơn vị và cá nhân. Tháng 6/1972 được Chính phủ và Quốc tuyên dương đơn vị anh hùng.
Thuộc đội 55 Thanh niên xung phong Hà Tĩnh, thành lập ngày 27/7/1965, nữ chiếm 85%, tuổi đời chủ yếu từ 17 đến 20, có nhiệm
 vụ sửa chữa, thông đường cho xe ở những chốt trọng điểm địch thường xuyên đánh phá
8
Nhà trẻ cô Thử
Liên tục đạt danh hiệu nhà trẻ tiên tiến. Riêng cô Thử được tặng Huy hiệu Hồ Chủ tịch, nhiều bằng khen, danh hiệu cô nuôi trẻ tiên tiến toàn miền Bắc.
Thuộc Hợp tác xã Lý Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
9
Cụ Vương Thị Ban
Huy hiệu “Ba đảm đang” của Thành Hội phụ nữ Hà Nội; Huy hiệu Hồ Chủ tịch của Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội.
Ở cụm 2, khối 1 Khu lao động An Dương, ngoài 70 tuổi nhưng tích cực tham gia mọi công tác của dân quân tự vệ ở khối. Ngoài tham gia nhiệt tình công tác cứu thương,từ việc giữ gìn trật tự đường phố đến vệ sinh phòng hỏa, từ việc vận động bà con đi học bổ tc đến công tác vận động bà con đi sơ tán, việc nào cụ cũng làm tròn.
Nguồn: [150, tr.87-160]
Phụ lục 6
MỘT SỐ ĐƠN VỊ BA NHẤT 
TRONG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ HÀ ĐÔNG
STT
TÊN CÁ NHÂN/ĐƠN VỊ
THÀNH TÍCH NỔI BẬT
01
Dân quân HTX cấp cao Phù-Lưu-Tế (Hà Đông)
Là một xã thuần túy nông nghiệp, gòm ba thôn với trên 3000 nông dân, phát huy được tinh thần “Bảy trăm nhà, tấp nập làm chung”. Dân quân Phù –Lưu-Tế được coi là đầu tàu chủ lực trong mọi việc của HTX, thành tích nổi bật là luôn đảm bảo vượt mức số công điểm. Năm 1959 được Chính phủ tặng Huân chương chiến công hạng 3, giữ cờ khá nhất về công tác nghĩa vụ quân sự. Riêng 3 tháng đầu năm 1961 đã nhận được 46 giấy khen của các ngành trong tỉnh, huyện trao tặng.
02
Tự vệ Xí nghiệp Nhuộm in hoa Hà Đông
Cả xí nghiệp là một đơn vị tự vệ, trong sản xuất, mỗi phân xưởng sáng kiến như hoa nở, trong công tác huấn luyện khó khăn mấy cũng hoàn thành. Trong đợt thi đua Duyên Hải 10 ngày lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ 22 Đảng Cộng sản Liên Xô, phân xưởng nào cũng vượt chỉ tiêu, phát huy nhiều sáng kiến có giá trị
03
Dân quân Xã Đồng Tân 
Một trong những nơi có phong trào thi đua Ba nhất sôi nổi của tỉnh Hà Đông, là lá cờ đầu về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện. dân quân xã bình quân mỗi năm một người làm 4.000 cân phân; 70 mét khối thủy lợi, thi bắn đạt nhất Huyện, đạt yêu cầu 100%, khá giỏi 70%. Trong PTTĐ Ba nhất, dân quân xã mỗi năm làm tối thiểu 2000 điểm, huấn luyện năm nào cũng tháng 9 là xong.
04
 Trung đội nữ dân quân Văn Giang
Trung đội du kích thôn Văn Giang (xã Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức), nơi xuất hiện 15 cô “gái Đại Phong” đầu tiên của Hà Đông. Trung đội nữ đã xây dựng tình đoàn kết thắm thiết như ruột thịt, hoàn thành tốt cả hai nhiệm vụ là sản xuất và huấn luyện.
Nguồn: [140, tr 13-35]
Phụ lục 7
DANH SÁCH MỘT SỐ ĐƠN VỊ/ CÁ NHÂN ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG TẠI ĐẠI HỘI LIÊN HOAN CHIẾN SĨ THI ĐUA TOÀN QUÂN NĂM 1960
STT
TÊN ĐƠN VỊ/CÁ NHÂN
THÀNH TÍCH NỔI BẬT
01
Đại đội 2 pháo binh đoàn Vinh Quang 
Lá cờ đầu trong phong trào thi đua Ba nhất, góp phần xứng đáng vào việc thúc đẩy phong trào Ba nhất tiến lên mạnh mẽ
02
Đại đi 2 công binh Tả Ngạn
Là đơn vị có nhiều tiến bộ về mọi mặt, đoạt 30 huy chương vàng (trong tổng 70 huy chương vàng của Đại hội), 3 cờ “Phân đội giỏi nhất về kỹ thuật”
03
Đại đội bộ binh Lê Hồng Phong
Lá cờ đầu của phong trào thanh niên quân khu 4, là đơn vị có thành tích tốt về nhiều mặt, 21 lần ắn súng đều đứng đầu toàn đoàn, các khoa mục khác cũng đạt loại giỏi, là đơn vị vừa huấn luyện vừa sẵn sàng chiến đấu tốt, xuất sắc trong tăng gia sản xuấn và dân vận.
04
Đại đội 2 thông tin liên lạc
Là đơn vị phân tán thành từng tổ nhỏ trên tuyến ờng dài 500km, nhưng đạt nhiều thành tích xuất sắc về mọi mặt: học tập quận sự, chính trị, văn hóa, nghiệp vụ
05
Trung úy- chính trị viên phó đại đội Trần Đình Bính
7 năm liền là chiến sĩ thi đua, 25 lần được từ trung đoàn đến quân khu khen thưởng, nêu cao tinh thần anh dũng bền bĩ trong việc bảo vệ trật tự an ninh ở vùng rẻo cao
06
Thủy thủ Đỗ Xuân Hoành
Nêu cao tinh thần dũng cảm, xung phong gương mẫu trong mọi nhiệm vụ, đã từng vật lộn với sóng gió 8 giờ liền đưa tàu ra khỏi vùng đá ngầm nguy hiểm
07
Chuẩn úy Nguyễn Phúc Chí
4 năm liền là chiến sĩ kỹ thuật giỏi, là chiến sĩ thi đua lái xe tiên tiến toàn quân, suốt 7 năm liền lái xe an toàn trên 10 vạn 5 nghìn cây số
08
Dương Đình Cởn
Xã đội trưởng Gia hưng (Ninh bình), 14 năm liền tham gia dân quân. Xây dựng và củng cố phong trào dân quân, đưa phong trào lên thành một xã tiên tiến của tỉnh
Nguồn: [Đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng quân đội (1961), Nxb QĐND, Hà Nội, tr12-16]
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
Lời kêu gọi thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (11.06.1948)
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ III (1962) (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IV (1966) (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Chiếc máy cày của Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng cho HTX Đại Phong 
(xã Phong Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình)
Công nhân Nhà máy Cơ khí Sóng Duyên Hải (Hải Phòng) - đang gấp rút hoàn thành kế hoạch sản xuất máy bơm nước bổ sung để cung cấp cho các HTX kịp làm vụ Đông Xuân 1961-1962. (Ảnh Vũ Tin - TTXVN)
Hình ảnh một buổi thao diễn kỹ thuật của công nhân nhà máy cơ khí Duyên Hải , Hải Phòng- lá cờ đầu của ngành công nghiệp miền Bắc đầu những năm 1960. (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh các học sinh Trường phổ thông cấp 2 Bắc Lý, Hà Nam thực hiện “Học đi đôi với hành, gắn lý luận với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội” 
Hình ảnh trong phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh: Hạ sỹ Phạm Ngọc Cương- lá cờ đầu trong PTTĐ chiến sĩ “Ba nhất”, Đại đội 3 (Sư đoàn 304) cùng các chiến sĩ “Ba nhất” ôn tập bài mục trên sa bàn thao trường (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh phong trào thi đua Ba sẵn sàng trong thanh niên, (Ảnh tư liệu TTXVN)
Hình ảnh phong trào thi đua “Ba sẵn sàng”, (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh học sinh Trường cấp III Yến Hòa, Hà Nội đăng ký phong trào Ba đảm nhiệm, sau này là phong trào phụ nữ ba đang (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh trong phong trào Phụ nữ Ba đảm đang (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Hình ảnh phụ nữ Ba đảm đang “Tay cày tay súng” (Ảnh Tư liệu TTXVN)
Thi đua lao động sản xuất trên công trình Đại thủy nông Bắc- Hưng -Hải, một trong những ngọn cờ thi đua trong thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc 
(Ảnh Tư liệu TTXVN)

File đính kèm:

  • docxluan_an_phong_trao_thi_dua_yeu_nuoc_o_mien_bac_trong_khang_c.docx
  • docxttttTÓM TẮT LUẬN ÁN IN NỘP NGÀY 21.1.2022.docx