Luận án Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973

Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành từ rất sớm, không ngừng phát triển qua thử thách vững bền của thời gian, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước tiếp tục dày công vun đắp. Đó là tài sản vô giá của cả hai dân tộc, rất cần được gìn giữ và phát triển trong giai đoạn hiện nay.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trên cơ sở pháp lý của những hiệp ước, hiệp định ký kết giữa Việt Nam và Lào, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt cử các đơn vị quân tình nguyện sang thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào. Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tại Lào luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng quân đội và nhân dân Lào chiến đấu, chiến thắng, lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Lào và hỗ trợ tích cực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam. Sự trưởng thành của quân đội Lào và những chiến công của cách mạng Lào là những minh chứng cho sự đóng góp quan trọng của quân tình nguyện Việt Nam và khắc sâu tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt giữa hai quân đội, hai Đảng, nhân dân hai nước. Đúng như Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam”, “Trên mỗi chiến trường Tổ quốc thân yêu của chúng tôi, đều có xương máu của cán bộ, chiến sĩ quốc tế Việt Nam hòa lẫn với xương máu của cán bộ, chiến sĩ nhân dân các bộ tộc Lào chúng tôi” [140, tr.183]. Bên cạnh những ưu điểm, thành công là chủ yếu, quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước không tránh khỏi những hạn chế. Thực tiễn đó rất cần được nhìn nhận một cách khách quan cả về ưu điểm cũng như hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm để kế thừa, vận dụng trong điều kiện lịch sử mới.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến phức tạp, khó lường. Mối quan hệ truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng đang đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Bên cạnh sự chống phá Việt Nam về nhiều mặt, các thế lực thù địch còn cố tình xuyên tạc tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào trong những năm kháng chiến trước đây, đặc biệt là việc Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam cử lực lượng quân tình nguyện Việt Nam sang hoạt động tại Lào. Do đó, làm rõ sự giúp đỡ vô tư, trong sáng trên tình quốc tế vô sản cao cả của lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tại Lào là điều hết sức cần thiết, nhằm góp thêm cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng cũng như củng cố phát triển mối quan hệ hợp tác đặc biệt, toàn diện giữa hai quốc gia, hai quân đội trong điều kiện lịch sử mới.

 

doc 231 trang kiennguyen 19/08/2022 5740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973

Luận án Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973
 LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các công trình khác đã công bố.
 TÁC GIẢ LUẬN ÁN
 Cáp Văn Đang
 MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
11
1.1.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
11
1.2.
Kết quả nghiên cứu của những công trình đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 
26
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM TẠI LÀO (1960 - 1968)
32
2.1.
Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào
32
2.2.
Chủ trương của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 
41
2.3.
Đảng chỉ đạo hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 
52
Chương 3
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM TẠI LÀO (1969 - 1973)
71
3.1.
Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 
71
3.2.
Chủ trương của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 
80
3.3.
Sự chỉ đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào 
90
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
115
4.1.
Nhận xét Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (1960 - 1973)
115
4.2.
Kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (1960 - 1973)
136
KẾT LUẬN
156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
160
PHỤ LỤC
179
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1
Chính trị quốc gia
CTQG
2
3
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân
Nxb
QĐND
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hình thành từ rất sớm, không ngừng phát triển qua thử thách vững bền của thời gian, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước tiếp tục dày công vun đắp. Đó là tài sản vô giá của cả hai dân tộc, rất cần được gìn giữ và phát triển trong giai đoạn hiện nay. 
Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trên cơ sở pháp lý của những hiệp ước, hiệp định ký kết giữa Việt Nam và Lào, Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam lần lượt cử các đơn vị quân tình nguyện sang thực hiện nhiệm vụ quốc tế tại Lào. Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tại Lào luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng quân đội và nhân dân Lào chiến đấu, chiến thắng, lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Lào và hỗ trợ tích cực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Việt Nam. Sự trưởng thành của quân đội Lào và những chiến công của cách mạng Lào là những minh chứng cho sự đóng góp quan trọng của quân tình nguyện Việt Nam và khắc sâu tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt giữa hai quân đội, hai Đảng, nhân dân hai nước. Đúng như Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Cayxỏn Phômvihản khẳng định: “Trong mọi sự thành công của cách mạng Lào đều có sự đóng góp trực tiếp của cách mạng Việt Nam”, “Trên mỗi chiến trường Tổ quốc thân yêu của chúng tôi, đều có xương máu của cán bộ, chiến sĩ quốc tế Việt Nam hòa lẫn với xương máu của cán bộ, chiến sĩ nhân dân các bộ tộc Lào chúng tôi” [140, tr.183]. Bên cạnh những ưu điểm, thành công là chủ yếu, quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước không tránh khỏi những hạn chế. Thực tiễn đó rất cần được nhìn nhận một cách khách quan cả về ưu điểm cũng như hạn chế, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm để kế thừa, vận dụng trong điều kiện lịch sử mới.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang diễn biến phức tạp, khó lường. Mối quan hệ truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cũng đang đứng trước những khó khăn, thử thách mới. Các thế lực thù địch đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Bên cạnh sự chống phá Việt Nam về nhiều mặt, các thế lực thù địch còn cố tình xuyên tạc tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào trong những năm kháng chiến trước đây, đặc biệt là việc Đảng, Nhà nước và Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam cử lực lượng quân tình nguyện Việt Nam sang hoạt động tại Lào. Do đó, làm rõ sự giúp đỡ vô tư, trong sáng trên tình quốc tế vô sản cao cả của lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tại Lào là điều hết sức cần thiết, nhằm góp thêm cơ sở lý luận, thực tiễn cho cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng cũng như củng cố phát triển mối quan hệ hợp tác đặc biệt, toàn diện giữa hai quốc gia, hai quân đội trong điều kiện lịch sử mới. 
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề, ở Việt Nam và Lào đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được công bố, đề cập ở các cấp độ và phạm vi khác nhau. Có những công trình được triển khai nghiên cứu cấp quốc gia nhằm tổng kết lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam qua mỗi chặng đường lịch sử; có những công trình bàn riêng về sự đoàn kết, hợp tác trên từng lĩnh vực cụ thể và có cả những luận văn, luận án tiến sĩ lịch sử có liên quan đến chủ đề này đã bảo vệ thành công... Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách độc lập, có tính hệ thống về quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973, dưới góc độ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973, đúc kết những kinh nghiệm phục vụ cho công tác lãnh đạo củng cố, phát triển mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam hiện nay. 
 	Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973. 
Nghiên cứu và trình bày, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973, qua hai giai đoạn 1960 - 1968 và 1969 - 1973.
Nhận xét và đúc kết những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Quân tình nguyện Việt Nam tại Lào (trong những năm 1960 - 1973) là một trong những bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào trong kháng chiến chống Mỹ là: Giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng; phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng Lào và trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Lào đánh thắng các chiến lược chiến tranh của Mỹ, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Lào và cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. 
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973, luận án tập trung nghiên cứu làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam trên ba nội chủ yếu: (1) Xây dựng, củng cố lực lượng quân tình nguyện Việt Nam hoạt động tại Lào; (2) Giúp cách mạng Lào xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng; (3) Phối hợp và trực tiếp chiến đấu chống các chiến lược chiến tranh của Mỹ trên chiến trường Lào. 
Về thời gian: Từ năm 1960 đến năm 1973. 
Tháng 9/1960 theo đề nghị của Trung ương Đảng Nhân dân Lào và Bộ Chỉ huy tối cao Pathết Lào, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chỉ đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam cử Tiểu đoàn 3 (thuộc Lữ đoàn 335, Quân khu Tây Bắc - sau là Đoàn 335 quân tình nguyện) sang phối hợp với bạn mở đợt hoạt động quân sự giải phóng Sầm Nưa, xây dựng Sầm Nưa thành căn cứ địa cách mạng. Đây là sự kiện đánh dấu hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của hai dân tộc. Đến tháng 2/1973, sau khi Hiệp định Viêng Chăn được ký kết, đại bộ phận quân tình nguyện Việt Nam rút quân về nước, chỉ để lại một bộ phận nhỏ ở lại diệt phỉ, giúp bạn giữ vững và bảo vệ thành quả cách mạng. 
Để thấy được sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, tác giả phân chia sự hoạt động thành hai giai đoạn cụ thể: 1960 - 1968, 1969 - 1973, tương ứng với sự phát triển của cách mạng Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Bởi mốc 1968 là năm đế quốc Mỹ kết thúc chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và từ năm 1969 trở đi chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào.
Về không gian: Đề tài giới hạn hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào và có sự liên hệ với cách mạng Việt Nam. Bởi quá trình hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào cũng chính là thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của hai nước Việt Nam và Lào.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế nói chung và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào nói riêng. 
Cơ sở thực tiễn
Luận án dựa trên thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch công tác; các báo cáo tổng kết của các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam hoạt động tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, đồng thời còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... để làm rõ các nội dung của luận án.
Phương pháp lịch sử được sử dụng nhằm làm rõ bối cảnh lịch sử, quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam từ năm 1960 đến năm 1973.
Phương pháp lôgic được sử dụng để khái quát chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về hoạt động của quân tình nguyện Việt Nam tại Lào; rút ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo quân tình nguyện Việt Nam tại Lào từ năm 1960 đến năm 1973.
Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận án nhằm so sánh sự lãnh đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam giữa hai giai đoạn 1960 - 1968 và 1969 - 1973.
Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm khảo cứu các công trình ở chương 1, làm rõ chủ trương sự chỉ đạo của Đảng đối với quân tình nguyện Việt Nam qua hai giai đoạn 1960 - 1968 và 1969 - 1973.
5. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần hệ thống hóa tư liệu về sự lãnh đạo của Đảng đối ...  Sư đoàn 308 (nay thuộc Quân đoàn 1).
20/9/1971
20
Đại đội 9 thiết giáp, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 203, Bộ tư lệnh Thiết giáp.
20/9/1971
21
Đại đội 12 pháo Đ.74, Trung đoàn 368, Bộ tư lệnh Pháo binh.
20/9/1971
22
Tiểu đoàn 35 công binh, Binh trạm 32, Bộ tư lệnh 559.
1/10/1971
23
Đại đội 969 pháo binh, Bộ tư lệnh Pháo binh.
1/10/1971
24
Đại đội 3 thiết giáp, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 203, Bộ tư lệnh Thiết giáp.
19/5/1972
25
Đại đội 24 quân y, Trung đoàn 88, Sư đoàn 308 (nay thuộc Quân đoàn 1).
19/5/1972
26
Đại đội 8 bộ binh, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 335, Quân khu Tây Bắc (nay thuộc Sư đoàn 31, Quân đoàn 3).
11/1/1973
27
Tiểu đoàn 27 đặc công, Đoàn 505.
11/1/1973
28
Đại đội 5 súng cối 120 ly, Tiểu đoàn 11, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
11/1/1973
29
Tiểu đoàn 2 công binh, Binh trạm 37, Bộ tư lệnh 559.
11/1/1973
30
Đại đội 23 ô tô vận tải, Tiểu đoàn 990, Binh trạm 15, Bộ tư lệnh 559.
11/1/1973
31
Tiểu đoàn 24 pháo cao xạ, Trung đoàn 591, Bộ tư lệnh 559.
11/1/1973
32
Tiểu đoàn 16 súng 12,7 ly, Sư đoàn 312 (nay thuộc Quân đoàn 1).
11/1/1973
33
Trung đoàn 165 bộ binh, Sư đoàn 312 (nay thuộc Quân đoàn 1).
3/9/1973
34
Trung đoàn 174 bộ binh, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
3/9/1973
35
Trung đoàn 335 bộ binh, Quân khu Tây Bắc (nay thuộc Sư đoàn 31, Quân đoàn 3).
3/9/1973
36
Tiểu đoàn 2 bộ binh, Trung đoàn 9, Sư đoàn 968, Bộ tư lệnh 559 (nay thuộc Quân khu 4).
3/9/1973
37
Tiểu đoàn 25 công binh, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
3/9/1973
38
Đại đội 9 bộ binh, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 148, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
3/9/1973
39
Đại đội 21 súng máy 12,7 ly, Trung đoàn 148, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
3/9/1973
40
Trung đoàn 9 bộ binh, Đoàn 968, Bộ tư lệnh 559 (nay thuộc Quân khu 4).
31/12/1973
41
Tiểu đoàn 6 bộ binh (tình nguyện), Quân khu Tây Bắc (nay là Quân khu 2).
31/12/1973
42
Đại đội 11 bộ binh, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316 (nay thuộc Quân khu 2).
31/12/1973
43
Đại đội 3 đặc công, Tiểu đoàn 31, Quân khu 4.
31/12/1973
44
Đại đội 35, ô tô vận tải, Binh trạm 10, Cục vận tải, Tổng cục Hậu cần.
31/12/1973
45
Đại đội vũ trang tuyên truyền Quân khu Tây Bắc (nay là Quân khu 2).
31/12/1973
46
Đại đội 6 bộ binh, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 141, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1.
12/9/1975
47
Đại đội 31 trinh sát Bộ Tham mưu Sư đoàn 31 (nay thuộc Quân đoàn 3).
15/1/1976
48
Đại đội 15 thông tin, trung đoàn 134, Bộ tư lệnh Thông tin liên lạc.
15/1/1976
49
Sư đoàn 968 bộ binh, Bộ tư lệnh 559 (nay thuộc Quân khu 4).
3/6/1976
50
Tiểu đoàn 1 bộ binh, Trung đoàn 19, Sư đoàn 968, Bộ tư lệnh 559 (nay thuộc Quân khu 4).
3/6/1976
51
Tiểu đoàn 16 súng máy cao xạ 12, 7 ly, Trung đoàn 54, Sư đoàn 320, Quân đoàn 1.
3/6/1976
Nguồn: - Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội, 2005, tr.453 - 456. 
Phụ lục 4
DANH SÁCH CÁ NHÂN ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG DANH HIỆU ANH HÙNG LỰC LƯỢNG 
VŨ TRANG NHÂN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ TẠI LÀO (1954 - 1975)
Stt
Họ và tên
Năm sinh
Dân tộc
Quê quán
Đơn vị
Ngày được
tuyên dương
1
2
3
4
5
6
1
Hoàng Ngọc Chương
Sinh năm: 1936
Dân tộc: Kinh
Xã Nam Giang, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Trung đội phó súng cao xạ 14,5 ly, Đại đội 48, Tiểu đoàn 14, Sư đoàn 330.
01/01/1967
2
Hoàng Văn Vịnh
Sinh năm: 1939
Dân tộc: Kinh
Xã Mạc Lạn, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Chính trị viên phó Đại đội 2, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316.
01/01/1967
3
Trần Ngọc Phương
Sinh năm: 1945
Dân tộc: Kinh
Huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Hạ sĩ, thuộc Đại đội 8, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 335 (nay thuộc Sư đoàn 31, Quân đoàn 3).
01/01/1967
4
Đỗ Văn Trì
Sinh năm: 1946
Dân tộc: Kinh
Xã Thụy Văn, huyện Thụy Anh, tỉnh Thái Bình.
Hạ sĩ, xạ thủ trung liên thuộc Đại đội 7, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316.
01/01/1967
5
Đèo Văn Khổ
Sinh năm: 1937
Dân tộc: Thái
Xã Chiềng La, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Tiểu đội trưởng Tiểu đội 2, Tiểu đoàn 51, Quân khu Tây Bắc
01/01/1967
6
Hà Văn Kẹp 
Sinh năm: 1942
Dân tộc: Thái
Xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
Trung đội phó, Trung đội trinh sát, Tiểu đoàn 923, Đoàn 959.
01/01/1967
7
Mùa A Páo
Sinh năm: 1946
Dân tộc: H’Mông
Xã Dè Phìn, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu.
Cán bộ tình nguyện giúp nước bạn Lào vận động dân tộc H’Mông, tỉnh Mường Sài.
01/01/1967
8
Phạm Hữu Thoan
Sinh năm: 1941
Dân tộc: Kinh
Xã Nam Tân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Hà.
Tiểu đội trưởng, Đại đội 10 thông tin, Tiểu đoàn 78, Cục Thông tin liên lạc (nay là Binh chủng thông tin liên lạc).
01/01/1967
9
Cà Văn Khum
(Liệt sĩ)
Sinh năm: 1942
Dân tộc: Thái
Bản Giảng, xã Chiềng Cơi, thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La.
Trung úy, phân đội phó đặc công, Đoàn 31 bộ đội tình nguyện.
22/12/1969
10
Vi Đức Cường
Sinh năm: 1946
Dân tộc: Dao
Xã Lục Dạ, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
Thượng sĩ đặc công đoàn 866, Quân khu Tây Bắc (nay thuộc sư đoàn 31, Quân đoàn 3).
25/8/1970
11
Lương Xuân Tuyết
(Liệt sĩ)
Sinh năm: 1942
Dân tộc: Kinh
Xã Kỳ Lân, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng bộ binh thuộc Đại đội 5, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316.
20/8/1970
12
Trần Văn Phước
(Liệt sĩ)
Sinh năm: 1942
Dân tộc: Kinh
Xã Vũ Hợp, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Thiếu úy, Đại đội trưởng, Tiểu đoàn 27 đặc công, Bộ tư lệnh Đặc công.
01/10/1971
13
Trịnh Minh Đích
Sinh năm: 1939
Dân tộc: Kinh
Xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Trung đội trưởng trinh sát thuộc Tiểu đoàn 27, Bộ tư lệnh đặc công.
01/10/1971
14
Hồ Thị Cảnh
Sinh năm: 1949
Dân tộc: Kinh
Xã Quỳnh Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Đại đội 35, Trung đoàn 217, Bộ tư lệnh Công Binh.
01/10/1971
15
Hoàng Trọng Sén
Sinh năm: 1944
Dân tộc: Tày
Xã Tân Việt, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
Trung úy, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 41 đặc công, Quân khu Tây Bắc.
01/01/1973
16
Vi Vặn Pụn
Sinh năm: 1943
Dân tộc: Thái
Xã Trường Tiến, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
Thiếu úy, Đại đội phó thuộc Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 148, Sư đoàn 316.
03/9/1973
17
Lương Văn Hạt
Sinh năm: 1951
Dân tộc: Kinh
Xã Đông Phong, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
Trung đội trưởng đặc công thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 27, Bộ tư lệnh đoàn 305.
03/9/1973
18
Nguyễn Thái Giám
Sinh năm: 1942
Dân tộc: Kinh
Xã Việt Ngọc, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Thiếu úy, chính trị viên phó Đại đội 1 ô tô vận tải thuộc Binh trạm 1, Cục Hậu cần, Quân Khu 4.
03/9/1973
19
Trần Văn Trí
Sinh năm: 1934
Dân tộc: Kinh
Xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
Trung úy, trinh sát ngoại biên thuộc lực lượng công an nhân dân vũ trang tỉnh Nghệ An.
03/9/1973
20
Nguyễn Đức Hạnh
Sinh năm: 1939
Dân tộc: Kinh
Xã Vũ Công, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
Thượng úy, tổ trưởng tổ chuyên gia thuộc đoàn 559.
31/12/1973
21
Triệu Xuân Tâng
Sinh năm: 1946
Dân tộc: Nùng
Xã Quốc Dân, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Thượng sĩ, Trung đội trưởng Đoàn 28 Quân khu Tây Bắc (nay thuộc Quân khu 2).
31/12/1973
22
Nguyễn Như Hành
Sinh năm: 1948
Dân tộc: Tày
Xã Quốc Việt, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn.
Thượng sĩ, Chính trị viên Tiểu đoàn 7 bộ binh, Trung đoàn 39, Đoàn 565, Bộ Tư lệnh 559.
31/12/1973
23
Phan Châu Mỹ
Sinh năm: 1945
Dân tộc: Kinh
Xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
Thượng úy, Chính trị viên Đại đội 21 súng máy 12,7 ly, Trung đoàn 39, Đoàn 565, Bộ tư lệnh 559.
06/11/1978
24
Lê Văn Trung
Sinh năm: 1928
Dân tộc: Kinh
Xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chuẩn úy, Trạm trưởng sửa chữa xe máy thuộc Trung đoàn 216, Binh chủng Công binh.
06/11/1978
25
Trịnh Trọng Thập
Sinh năm: 1951
Dân tộc: Nùng
Xã Cai Lệ, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Thượng sĩ, Trung đội trưởng lái xe ô tô thuộc Phòng tham mưu Sư đoàn 31 (nay thuộc Quân đoàn 3).
06/11/1978
Nguồn: - Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb QĐND, Hà Nội, 2005, tr.457 - 462. 
Phụ lục 5
MỘT SỐ BỨC ẢNH TIÊU BIỂU VỀ QUÂN TÌNH NGUYỆN 
VIỆT NAM TẠI LÀO TỪ NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1973
Chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam tại Lào
Nguồn: Ảnh tư liệu Thông tấn xã Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Trưởng đoàn đại biểu Đảng và mặt trận Lào yêu nước sang thăm Việt Nam, năm 1963
Nguồn: Ảnh tư liệu Thông tấn xã Việt Nam
Hội đàm giữa Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và
Trung ương Đảng Nhân dân Lào tại Hà Nội, năm 1967
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Bộ đội Pathết Lào, năm 1965
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Một đơn vị quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Lào
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Quân tình nguyện Việt Nam và quân đội giải phóng nhân dân Lào, năm 1963
Nguồn: Ảnh tư liệu Thông tấn xã Việt Nam
Quân tình nguyện Việt Nam tổ chức hội thao đánh giá kết quả huấn luyện pháo binh của bộ đội Pathết Lào, năm 1962 
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Quân tình nguyện Việt Nam huấn luyện sử pháo 12 nòng cho đơn vị pháo binh nữ của Quân đội giải phóng nhân dân Lào, năm 1972
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Quân tình nguyện Việt Nam và Quân đội giải phóng nhân dân Lào cùng chung chiến hào đánh đế quốc Mỹ trên chiến trường Lào, năm 1972
Nguồn: Ảnh tư liệu Thông tấn xã Việt Nam 
Quân tình nguyện Việt Nam và Quân đội Giải phóng nhân dân Lào nghiên cứu sa bàn trong Chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng 
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
 Các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào, năm 1972
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Chiến sỹ quân y tình nguyện Việt Nam phòng chống 
dịch bệnh trong vùng giải phóng Lào năm 1962 
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Quân tình nguyện Việt Nam tham gia lao động sản xuất cùng nhân dân các bộ tộc Lào; Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Nhân dân Lào chở Quân tình nguyện Việt Nam qua sông 
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
 Đồng chí Sa Mạn thay mặt Bộ Chỉ huy tối cao Pathết Lào trao cờ cho Quân tình nguyện Việt Nam trong dịp Tổng kết hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch 1972.
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Hội đàm giữa Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam và 
Đoàn Đại biểu Đảng Nhân dân Lào tại Hà Nội, năm 1971
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Hoàng thân Souphanouvong trao tặng đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam 
mặt trận miền Tây 2 Huân chương Giải phóng, năm 1972.
Nguồn: Ảnh Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Nxb Thông tấn, 2017
Các đại biểu chụp ảnh chung tại tượng đài “Tình đoàn kết liên minh chiến đấu
Việt Nam - Lào”, tại huyện Pặc Soòng, tỉnh Chăm Pa Sắc
Nguồn: Ảnh Thông tấn xã Việt Nam
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trao Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Ban Liên lạc Quân tình nguyện và Chuyên gia Việt Nam tại Lào Nguồn: Ảnh Thông tấn xã Việt Nam

File đính kèm:

  • docluan_an_dang_lanh_dao_quan_tinh_nguyen_viet_nam_tai_lao_tu_n.doc
  • doc1 BIA LUAN AN - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc2 BIA TOM TAT TIENG VIET - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc2 TOM TAT TIsNG VIaT - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc3 BIA TOM TcT TIsNG ANH - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc3 TOM TcT TIsNG ANH - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc4 THONG TIN MoNG TIsNG ANH - Cap Dang LSD TTM.doc
  • doc4 THONG TIN MoNG TIsNG VIaT - Cap Dang LSD TTM.doc