Luận văn Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Thụy Vân
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đề ra nhiều chủ trương đúng đắn, nhờ vậy tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Trong các chủ trương đó, phải kể đến chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Khu công nghiệp (sau đây gọi tắt là KCN), Khu kinh tế ( sau đây gọi tắt là KKT), Khu chế xuất (KCX) được hình thành là một trong những giải pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau 20 năm triển khai xây dựng các khu công nghiệp, trong cả nước đã hình thành một mạng lưới các KCN, và đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của các địa phương, các vùng và cả nước, thể hiện vai trò đi đầu trong tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết việc làm và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam.
Kể từ khi KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991. Hiện tại, cả nước đã có 283 (KCN) KCX được thành lập ở 58 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích đất tự nhiên 70.000 ha, trong đó có hơn 46.000 ha đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm khoảng 61% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, với 171 KCN đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích đất tự nhiên 43.580 ha và 112 KCN đang trong đang trong quá trình đền bù gải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng, với tổng diện tích đất tự nhiên 26.420 ha. Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2015, dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích gần 32.000 ha, sau một thời gian thực hiện quyết định nêu trên một số KCN đã thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển KCN đến năm 2020, số KCN quy hoạch thành lập đến năm 2020 là 209 KCN với tổng diện tích 64.310 ha.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Thụy Vân

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TÀO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI NGUYỄN HÀ VIỆT PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO KHU CÔNG NGHIỆP THỤY VÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: Quản trị Kinh Doanh Khóa: 2009-2011 Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thanh Hồng PHÚ THỌ, NĂM 2012 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đề ra nhiều chủ trương đúng đắn, nhờ vậy tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Trong các chủ trương đó, phải kể đến chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước, trong đó có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Khu công nghiệp (sau đây gọi tắt là KCN), Khu kinh tế ( sau đây gọi tắt là KKT), Khu chế xuất (KCX) được hình thành là một trong những giải pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sau 20 năm triển khai xây dựng các khu công nghiệp, trong cả nước đã hình thành một mạng lưới các KCN, và đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của các địa phương, các vùng và cả nước, thể hiện vai trò đi đầu trong tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh, giải quyết việc làm và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam. Kể từ khi KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991. Hiện tại, cả nước đã có 283 (KCN) KCX được thành lập ở 58 tỉnh, thành phố, với tổng diện tích đất tự nhiên 70.000 ha, trong đó có hơn 46.000 ha đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm khoảng 61% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, với 171 KCN đã đi vào hoạt động, với tổng diện tích đất tự nhiên 43.580 ha và 112 KCN đang trong đang trong quá trình đền bù gải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng, với tổng diện tích đất tự nhiên 26.420 ha. Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, đến năm 2015, dự kiến thành lập mới 115 KCN và mở rộng 27 KCN với tổng diện tích gần 32.000 ha, sau một thời gian thực hiện quyết định nêu trên một số KCN đã thành lập và một số KCN đã được bổ sung vào quy hoạch phát triển KCN đến năm 2020, số KCN quy hoạch thành lập đến năm 2020 là 209 KCN với tổng diện tích 64.310 ha. Thực tế quá trình xây dựng và phát triển các KCN,KCX Việt Nam trong 20 năm đã qua cho ta thấy những đóng góp quan trọng của KCN,KCX trong thu hút đầu tư, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế Nguyễn Hà Việt 1 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và lao động các địa phương trên cả nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những đóng góp tích cực của KCN, KCX vào phát triển kinh tế, xã hội trong 20 năm qua đã khẳng định đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển các KCN, KCX. Tuy nhiên, sự phát triển của các KCN ở nước ta chưa thực sự vững chắc, việc xây dựng cơ sở hạ tầng KCN chưa đồng bộ, chưa gắn chặt với yêu cầu bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm, vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ còn yếu, liên kết kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN chưa cao, khả năng tạo việc làm, thu hút lao động vẫn còn nhiều hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm sao để nâng cao khả năng thu hút vôn đầu tư vào KCN hay nói cách khác là nâng cao hiệu quả của các KCN là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước, các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hạ tầng KCN, các doanh nghiệp và nhân dân trong cả nước đã và đang rất quan tâm. Phú Thọ là một tỉnh miền núi phía tây Bắc Việt Nam, vị trí địa lý trng tâm của vùng, là cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, cầu nối vùng Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, có truyền thống về phát triển tiểu thủ công nghiệp và chế biến nông sản thực phẩm. Nhằm phát triển Phú Thọ là trung tâm phía tây bắc về kinh tế, xã hội và công nghiệp tại đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18 và 19 đã xác định rõ mục tiêu: “Chủ động nắm thời cơ tranh thủ xây dựng các dự án đầu tư để phát triển những cơ sở sản xuất công nghiệp mới, hình thành khu công nghiệp tập trung và đầu tư cơ sở hạ tầng vào khu vực này để thu hút, đón nhận đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước" Từ chủ trương trên, trong những năm qua UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành xây dựng quy hoạch các KCN tập trung phù hợp với các điều kiện thực tế của địa phương, đồng thời tỉnh cũng ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm kêu gọi và thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh. Theo báo cáo của Ban QL các KCN tỉnh Phú Thọ đến hết năm 2010 toàn tỉnh đã có 7 KCN được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào danh mục các khu công nghiệp tập trung đến năm 2015, định hướng 2020. Hiện nay đã có 01 KCN đã xây dựng xong hạ tầng đi vào hoạt động, với 47 dự án thứ cấp, 2 KCN đang làm thủ tục đầu tư và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch bổ sung và thành lập mới Nguyễn Hà Việt 2 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội KCN. Từ khi các KCN trên địa bàn tỉnh đi vào hoạt động đã đóng góp tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực các KCN của tỉnh Phú Thọ cũng như nhiều KCN khác trên cả nước vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế về thu hút đầu tư vào khu công nghiệp ... Do đó đề tài: “ Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Thụy Vân” là một đề tài hết sức cần thiết cho tác giả trong công tác của mình tại Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ. 2. Mục đích của đề tài. Mục đích nghiên cứu đề tài để giải quyết một số nội dung sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về phát triển các khu công nghiệp, xây dựng các tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư tại các KCN. - Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động trong quá trình hình thành và đầu tư các KCN của tỉnh Phú Thọ. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân. 3. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở các khu công nghiệp của tỉnh Phú Thọ nói chung, KCN Thụy Vân nói riêng và một số KCN của các tỉnh lân cận. 4. Phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu sẵn có, kết hợp điều tra khảo sát tại các KCN của tỉnh Phú Thọ, từ đó phân tích, đánh giá các số liệu thu thập được và đưa ra các giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân. 5. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài: Việc nghiên cứu để xây dựng đề tài: “Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp Thụy Vân” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan hoạch định chính sách phát triển của địa phương có những thông tin cần thiết để xây dựng chiến lược phát triển KCN Thụy Vân. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài thể hiện qua các nội dung sau đây: Nguyễn Hà Việt 3 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Một là, hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về các KCN, các tiêu chí đánh giá khả năng thu hút vốn đầu tư của các KCN nói chung. Hai là, bằng các số liệu chứng minh, luận văn phân tích và làm sáng tỏ hiện trạng đầu tư vào KCN Thụy Vân. Từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm và giúp cho cho các cấp chính quyền, các cơ quan ban ngành của tỉnh nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với KCN Thụy Vân, đồng thời có chính sách phù hợp đối với các KCN phục vụ sự phát triển bền vững của tỉnh nhà. Ba là, chỉ ra những kết quả đã đạt được, những hạn chế và những nguyên nhân trong quá trình phát triển KCN Thụy Vân, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào các KCN đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ một cách bền vững. 6. Kết cấu của đề tài: - Phần mở đầu - Chương 1: Cơ sở lý thuyết về Khu công nghiệp - Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân - Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư vào KCN Thụy Vân. - Kết luận Nguyễn Hà Việt 4 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Chương 1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHU CÔNG NGHIỆP 1.1. Khái niệm về KCN 1.1.1. Khái niệm về KCN Kinh tế thế giới đã bước sang một giai đoạn mới với việc ứng dụng cách mạng công nghệ thông tin. Thị trường toàn cầu dần rộng mở với tốc độ vận chuyển và truyền thông nhanh hơn bao giờ hết. Các công ty có thể dễ dàng tận dụng chi phí nhân công và nguyên vật liệu rẻ ở nơi khác để cạnh tranh về giá thành. Người ta không còn cần phải tập trung vào các khu vực dồi dào tài nguyên và nguồn lao động khi xây dựng cơ sở kinh doanh. Phải chăng, nền kinh tế mới đang dần xoá bỏ vai trò của vị trí địa lý trong các quyết định chiến lược. Trên thực tế, lợi thế cạnh tranh khu vực đang dần chuyển biến sang một hướng khác. Đó là việc hình thành nên các khu công nghiệp tập trung (mang tính tự phát), mà Michael E. Porter, giáo sư kinh tế Đại học Havard, gọi là những "clusters". Trước đây, lợi thế khu vực phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, nguồn lao động,... mà ở nơi khác không có được. Ngày nay, khái niệm cluster đã khẳng định lợi thế khu vực qua hiện tượng quy tụ của các ngành công nghiệp. Không phải ngẫu nhiên mà Hollywood trở thành trung tâm công nghiệp điện ảnh, Wall Street trở thành trung tâm công nghiệp tài chính, Silicon Valley trở thành trung tâm công nghệ cao và bắc Ý trở thành trung tâm công nghiệp giày da cao cấp. Vì khả năng kiểm soát giá thành của các Công ty ngày càng tương đương, năng lực cạnh tranh đang và sẽ phụ thuộc vào tính năng đầu ra của sản phẩm và dịch vụ, với yếu tố quyết định là khả năng đổi mới (innovation) của công ty. Trước hết cần hiểu khu công nghiệp tập trung như thế nào? Theo định nghĩa của Porter, "cluster" là tập hợp các công ty cùng với các tổ chức tương tác qua lại trong một lĩnh vực cụ thể. Xung quanh nhà sản xuất hình thành các nhà cung cấp chuyên môn hoá các phụ kiện và dịch vụ cũng như cơ sở hạ tầng. Khu công nghiệp tập trung bao trùm lên cả các kênh phân phối và khách hàng, và bên cạnh đó là những nhà sản xuất sản phẩm phụ trợ, các công ty thuộc các ngành liên quan về kỹ thuật, công nghệ hoặc cùng sử dụng một loại đầu vào. Các khu công nghiệp tập Nguyễn Hà Việt 5 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trung còn hình thành cả các tổ chức chính phủ và phi chính phủ như các trường đại học, các viện công nghệ, các trung tâm nghiên cứu, hiệp hội thương mại... cung cấp các dịch vụ đào tạo chuyên môn, giáo dục, thông tin, nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật. Theo Luật Đầu tư của Việt Nam số 59/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 và theo nghị định số 29/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về KCN, KCX và KKT thì định nghĩa về các KCN, KCX và KKT như sau: Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công nghiệp quy định của Chính phủ. Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể. Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính Phủ. Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của từng khu kinh tế. 1.1.2. Đặc điểm của khu công nghiệp: Về mặt pháp lý: các khu công nghiệp là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp của Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như: luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất... - Về mặt kinh tế: khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, các nguồn lực của nước sở tại, của các nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào một khu vực địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát Nguyễn Hà Việt 6 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội triển cơ cấu kinh tế, những ngành mà nước sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tại đây thuận lợi cho việc sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường. 1.1.3. Sự cần thiết khách quan xây dựng và phát triển KCN Trong quá trình phát triển kinh tế, ở hầu hết các nước đang phát triển đều rất thiếu vốn. Do đó vấn đề tạo vốn được coi là vấn đề lớn nhất trong việc huy động các nguồn lực. Chỉ có tạo được nguồn vốn cho phát triển kinh tế mới có thể tiến hành đầu tư, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Giữa hai nguồn vốn đầu tư: trong nước và ngoài nước thì vốn đầu tư trong nước được coi là giữ vai trò quyết định cho sự phát triển, vốn đầu tư nước ngoài được xác định là rất quan trọng tạo ra sự đột phát cho sự phát triển. Một trong những giải pháp để huy động vốn là tích cực mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng cấp dịch vụ và chất lượng các KCN làm cho môi trường đầu tư được thuận lợi hơn. Để hấp dẫn đầu tư nước ngoài và huy động mọi nguồn lực trong nước nhằm phát triển kinh tế đất nước, các quốc gia trên thế giới đều cần có một môi trường đầu tư thuận lợi bao gồm môi trường pháp lý hoàn thiện và môi trường kinh doanh thuận lợi. Hai nhân tố này là điều kiện cần thiết có ý nghĩa tiên quyết cho việc thu hút đầu tư. Song thực tế nó cũng là điểm yếu mà tất cả các nước đang phát triển gặp phải, không dễ gì nhanh chóng khắc phục. Các nước đang phát triển chưa có được hệ thống pháp luật hoàn hảo cùng với một môi trường kinh doanh thuận lợi nên việc đáp ứng những điều kiện trên cho các nhà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, không thể thực hiện trong thời gian ngắn. Giải pháp khắc phục mâu thuẫn trên đã được nhiều nước đang phát triển tìm kiếm, lựa chọn và thực tế đã thành công ở nhiều nước là xây dựng các KCN tập trung qua đó thu hút doanh nghiệp FDI và đầu tư trong nước trong khi chưa tạo được môi trường đầu tư hoàn chỉnh trên phạm vi cả nước. Mục tiêu chung của việc hình thành KCN là làm tăng trưởng nhanh và vững chắc tổng sản phẩm quốc nội, tạo việc làm, đô thị hoá các vùng nông thôn lạc hậu, Nguyễn Hà Việt 7 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nâng cao dân trí. Các KCN sẽ góp phần tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả vốn đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết, hợp tác với nhau nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hội nhập kinh tế quốc tế. KCN phát triển sẽ tác động đến việc hình thành các vùng nguyên liệu, các vùng công nghiệp vệ tinh, góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phát triển các KCN cũng đồng thời với việc tiết kiệm hạ tầng, có điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, cung cấp các dịch vụ hành chính công cho các Doanh nghiêp và có môi trường tốt để tiếp nhận và chuyển giao công nghệ tiên tiến. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, chúng ta chưa thể có ngay được một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ trên cả nước, chưa thể tạo ra một mặt bằng pháp lý thống nhất và bình đẳng cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước hoạt động, phát triển KCN là một giải pháp để có được một hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, môi trường pháp lý thuận lợi và thống nhất để thu hút vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Đăc biệt trong thời gian gần đây, quan điểm về phát triển KCN có sự thay đổi: phát triển KCN không chỉ chú trọng vào mục tiêu thu hút vốn FDI nhằm du nhập các yếu tố vốn, công nghệ, trình độ lao động của thế giới vào Việt Nam, xem nhẹ khu vực trong nước, mà KCN còn là một giải pháp để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước, thông qua việc thu hút các doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư vào KCN. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là dòng vốn đầu tư trong nước vào KCN vài năm gần đây ngày càng gia tăng. KCN là mô hình kinh tế đã được áp dụng phổ biến trên thế giới. Ở các nước phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ, có một thời kỳ các nước này đã đẩy mạnh việc phát triển các KCN và rất chú trọng vai trò của KCN trong quá trình phát triển kinh tế. Kinh nghiệm phát triển mô hình KCN ở các nước này cho thấy, phát triển KCN là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp quốc gia. Có thể nói thành công của các KCN đã góp phần không nhỏ để các nước này trở thành những nước có nền kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước công nghiệp mới phát triển như: Trung Quốc, Hàn Quốc cũng như các nước đang phát triển ở Đông Nam Á hiện nay cũng đang phát triển việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX và đều gặt hái được những thành công đáng kể. Nguyễn Hà Việt 8 Khóa học 2009 Luận văn Thạc sỹ QTKD Trường Đại học Bách khoa Hà Nội Thành công của các KCN đã được khẳng định trên thế giới và bước đầu được khẳng định ở Việt Nam, như một đòn bẩy quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước. KCN là nơi tập trung các nguồn lực để phát triển kinh tế, là nơi diễn ra sự phân công lao động xã hội trình độ cao, thực hiện các mối liên kết kinh tế quốc tế. Phát triển KCN là phù hợp với xu thế kinh tế thế giới, phù hợp với chủ trương ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy năng lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước của Đảng và Nhà nước ta. 1.1.4. Vai trò của KCN trong tiến trình CNH - HĐH đất nước (1) Thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Thực tiễn phát triển KCN, KCX thời gian qua cho thấy, các KCN, KCX đã góp phần quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng sản lượng công nghiệp; góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; khai thác tốt nhất mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế. Trong những năm qua, doanh thu và giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX liên tục tăng nhanh đều qua các năm. Doanh thu trung bình của các doanh nghiệp trong KCN, KCX tăng trưởng trung bình gần 48%/năm, gấp 6,3 lần tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước (nguồn: Vụ QL các KKT – Bộ KHĐT). Giá trị xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX tăng trưởng mạnh, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX giai đoạn từ năm 2005-2010 là 38,1%, cao hơn nhiều tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của cả nước. Năm 2005, các doanh nghiệp trong KCN, KCX đã nộp ngân sách đạt 650 triệu USD, đến năm 2010, các doanh nghiệp này đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt 2.620 triệu USD, cao gấp 4 lần so với năm 2005 (xem Bảng 1.1). Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu của các khu công nghiệp toàn quốc Chỉ tiêu ĐVT 2011 GTSX Công nghiệp Triệu USD 31350 Giá trị xuất khẩu " 14950 Giá trị nhập khẩu " 15930 Nộp ngân sách " 4200 Lao động cuối kỳ 1000 người 11760 Nguồn: Vụ quản lý các KKT – Bộ KHĐT, 2011 Nguyễn Hà Việt 9 Khóa học 2009
File đính kèm:
luan_van_phan_tich_thuc_trang_va_de_xuat_mot_so_giai_phap_na.pdf
000000255046_tt_7737.pdf