Luận văn Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội.

pdf 93 trang Bách Nhật 04/04/2025 320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Luận văn Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
 MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận 
và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm 
pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát 
xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi 
phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định 
hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả. 
 Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự 
nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của 
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, 
là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn 
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân 
chủ, công bằng, văn minh". 
 Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những 
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã 
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề 
lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong 
những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi 
phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia 
đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn 
diện của xã hội. 
 Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức 
nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. BLGĐ đang trở 
thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa 
nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới, là một trong những 
nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của 
con người, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. BLGĐ đã và đang 
là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con 
đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, 
sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của BLGĐ là mối quan tâm của nhiều 
quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua 
Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công 
ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ 
(CEDAW) đã thể hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong 
 1 vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ. Bước sang thế kỷ XXI, bạo 
lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm 
trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bạo lực gia đình đang trở thành 
vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối 
quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới. Bạo lực gia đình đã 
và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các 
quyền con người. 
 Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực 
gia đình tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp 
luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng 
giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là 
quan điểm nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn và 
tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bao lực, cụ thể như 
phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước 
quốc tế về quyền trẻ em .Vấn đề phòng, chống BLGĐ cũng được thể hiện 
trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đều coi BLGĐ là hành vi vi 
phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh 
dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật 
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; 
Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống 
bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu 
lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn 
bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực 
hiện pháp luật và xử lý các hành vi BLGĐ. 
 Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu 
quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân 
phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm 
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính 
dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà 
khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây 
tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngoài hậu quả về xã 
hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo 
lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và 
phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi 
phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia 
lao động sản xuất của nạn nhân. 
 2 Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đã xảy ra và số 
lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội và đặt ra cho xã 
hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về bạo 
lực gia đình. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các 
nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và 
biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người, giúp họ 
thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ 
thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ổn định và phát triển cho xã 
hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phòng, chống bạo 
lực gia đình, loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình trong xã hội, có ý 
nghĩa lý luận và thực tiễn, đề tài "Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo 
lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay" đã được tác giả lựa chọn làm đề tại 
luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 
 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 
 Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội 
có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề 
thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. 
Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Luật 
Phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới” do Ủy ban về 
các vấn đề xã hội của Quốc hội XI biên soạn; “Trách nhiệm của các cơ quan 
nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc 
Bích, Đại học Luật Hà Nội; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo 
lực gia đình” của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;“Bàn về ranh giới giữa 
xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam 
hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật; “Phòng 
chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng vấn đề và giải 
pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia 
HCM 2008; “Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải 
pháp” của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình- 
Trẻ em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội 
học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM; “Bình 
luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; 
“Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác 
giả Trần Thị Hòe; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm 
hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan 
Thị Lan Hương; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên 
nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;“Tổng quan về bạo lực và 
 3 pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim 
Phụng . Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa 
học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. 
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ 
dưới nhiều góc độ khác nhau, Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn 
đề phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về 
phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc đến nay hầu như chưa có. 
Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, 
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, đề tài 
nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã 
được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi 
tác giả nghiên cứu đề tài này. 
 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 
 3.1. Mục đích 
 Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở 
lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh 
Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp 
cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo 
lực gia đình ở Vĩnh Phúc. 
 3.2. Nhiệm vụ 
 Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ 
chính sau: 
 - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và 
vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở lý luận về 
vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống 
bạo lực gia đình, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm 
pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; nội dung vi phạm pháp luật 
phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. 
 - Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo 
lực gia đình trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm 
rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình 
trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật 
một cách cơ bản nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó, phân tích 
các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho 
việc đưa ra các giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. 
 4 - Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, 
chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình góp phần hạn chế tiến 
tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong 
xã hội. 
 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 
 4.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn 
xác định đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo 
lực gia đình, việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý trên cơ sở lý luận 
chung về Nhà nước, pháp luật và pháp luật thực định. 
 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn 
 Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống 
bạo lực gia đình trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay. 
 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 
 5.1. Phương pháp luận 
 Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện 
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của 
Đảng và Nhà nước, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo 
lực gia đình. 
 5.2. Phương pháp nghiên cứu 
 Trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, 
diễn giải, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần 
nghiên cứu. 
 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 
 - Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp 
phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng chống 
BLGĐ, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở 
nước ta hiện nay. 
 - Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của 
người dân về vấn đề BLGĐ, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận 
dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống 
BLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham 
khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn 
cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những 
vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ. 
 5 7. Kết cấu của luận văn 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung 
của luận văn gồm 3 chương: 
 Chương 1: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống 
bạo lực gia đình. 
 Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia 
đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay. 
 Chương 3: Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật 
trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc. 
 6 Chƣơng 1 
 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ 
 PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 
 1.1. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
 1.1.1. Khái niệm về bạo lực gia đình 
 Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật 
Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia 
đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây 
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia 
đình" [29, tr.1]. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội 
nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với 
nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình 
thành các hình thức chủ yếu sau: 
 - Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia 
đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ. 
 - Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương 
tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình 
 - Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế 
của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động ) 
 - Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép 
trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép 
sinh con. 
 Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác 
nhau. Hiểu một cách thông dụng thì bạo lực gia đình là một thuật ngữ dùng để 
chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đây là 
hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một 
quá trình để thực hiện hành vi làm cho người khác đau đớn về thể xác, bị 
khủng hoàng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống 
 7 chế và kiểm soát người đó. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, nền văn 
hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao hay thấp. 
 Như vậy, dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem 
xét bạo lực gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm: 
 + Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành 
viên trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra 
bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực 
gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó. 
 + Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể 
là lỗi vô ý. 
 + Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây 
tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. 
 Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm sâu sắc. 
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng miền mà 
là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, nước đang phát 
triển cho đến nước giàu có, phát triển mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia đình 
thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Đối tượng của 
các hành vi bạo lực gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả nam giới nhưng 
thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các 
trường hợp là phụ nữ, người già và trẻ em. 
 Bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm 
của mỗi cá nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm 
trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một 
cuộc sống bình thường và nhất là tương lai của các em sau này. 
 1.1.2. Phòng, chống bạo lực gia đình 
 a) Khái niệm phòng bạo lực gia đình 
 Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp 
tác động và quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng 
thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực gia đình. 
 8 Phòng bạo lực gia đình và sự cần thiết của phòng bạo lực gia đình là để bảo 
vệ, duy trì trật sự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của 
cộng đồng, của xã hội. 
 Bạo lực gia đình phát sinh, tồn tại là do những nguyên nhân và điều 
kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có khả năng tiến hành phòng ngừa 
và ngăn chặn hàng vi bạo lực gia đình khi nó chưa xảy ra. 
 Trong ngành tư pháp: Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì 
càng tốt hơn. Quan điểm này thể hiện phương châm rất quan trọng là lấy giáo 
dục, phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống bạo lực gia 
đình tốt. Yêu cầu là phải phòng bạo lực gia đình ngay từ lúc đầu, làm cho bạo 
lực gia đình ít xảy ra hơn và tiến tới không xảy ra bạo lực gia đình hay xử lý 
bạo lực gia đình chỉ là hãn hữu, là việc làm bất đắc dĩ. 
 Do đó, phòng bạo lực gia đình cần lấy việc tuyên truyền, phổ biến giáo 
dục pháp luật là quan trọng, hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này thì 
phòng bạo lực gia đình được coi là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành và 
toàn xã hội. 
 b) Khái niệm chống bạo lực gia đình 
 Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất 
cũng như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân 
thường nhờ cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với huy vọng là 
các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn 
chống lại bạo lực gia đình. 
 Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp chống bạo lực gia đình, lấy 
phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư 
vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp 
của dân tộc Việt Nam. 
 Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín, 
với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia 
đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia 
đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại 
 9 của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì 
khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là 
không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức 
của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp giữa các thành viên gia 
đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa 
giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi 
người, nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi 
bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt 
hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia phòng chống 
bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp. 
 Pháp luật luôn hướng tới việc ngăn chặn các hành vi phạm tội trước khi 
xảy ra để giữ gìn trật tự, tránh những tổn thất cho cộng đồng và xã hội. Riêng 
trong lĩnh vực chống bạo lực gia đình thì việc phòng ngừa càng có ý nghĩa 
quan trọng. Bởi vì hành vi bạo lực nếu xảy ra thì ít nhiều đã gây ra những tổn 
thương nhất định cho các thành viên trong gia đình, làn xấu đi mối liên kết và 
tình cảm gia đình, và việc hàn gắn là không dễ; nếu hành vi bị phát hiện và xử 
ký theo pháp luật thì quan hệ gia đình có thể sẽ chuyển biến xấu hơn nữa. Vì 
vậy, cần phải lấy phòng ngừa là chính trong hoạt động chống bạo lực gia 
đình. 
 Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn 
thương cho nạn nhân, tổn hại tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn 
chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. Do đó, cần phát huy 
vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong 
chống bạo lực gia đình. 
 Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà 
còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc chống bạo lực 
gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước 
và những người có liên quan. Việc chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó 
khăn khi triển khai trên thực tế, do không có nhiều chủ thể tích cực tham gia 
công tác này vì nhận thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều 
 10 

File đính kèm:

  • pdfluan_van_vi_pham_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh_o.pdf