Luận án Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Ở bất kỳ một TTCK nào, vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT luôn được xác
định là một trong những mục tiêu quan trọng và cơ bản nhất mà cơ quan quản lý
nhà nước hướng đến nhằm phát triển TTCK ổn định, công bằng và bền vững. Sẽ
không có một TTCK ―mạnh khỏe‖ nếu như quyền lợi hợp pháp của NĐT - những
người kiến tạo nên thị trường không được đảm bảo. Nhận thức được vấn đề này,
ngay từ khi TTCK Việt Nam ra đời, các cơ quan quản lý nhà nước đã thiết lập cơ
chế bảo vệ quyền lợi NĐT trong các văn bản pháp luật về chứng khoán nói riêng và
pháp luật về hoạt động kinh doanh nói chung. Ngay từ Nghị định 48/1998/NĐ-CP
về chứng khoán và TTCK Việt Nam các nhà làm luật đã xác định việc xây dựng các
quy định pháp luật là:“Để tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh
doanh chứng khoán, nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn dài hạn trong
nước và nước ngoài, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai,
công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền hợp pháp của người đầu tư ’’.Điều này càng
được khẳng định thông qua nội dung của LCK 2006, LCK 2019, LDN 2014, LDN
2020 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Mặc dù hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NĐT trên TTCK
Việt Nam đã bước đầu được xây dựng, củng cố nhưng do nằm rải rác trong nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như LCK, LDN, LĐT , các văn bản dưới
luật như nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ tài chính, các quyết định của
UBCKNN nên vẫn còn hiện tượng chồng chéo, thiếu sự thống nhất, đồng bộ đặc
biệt là vẫn tồn tại một số vướng mắc giữa LCK và các văn bản luật trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại khác như LDN, LĐT, Luật xử lý vi phạm hành chính .[9].
Ngoài ra, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán hiện
nay khá nhẹ, tính răn đe không cao, không tương thích với những hậu quả mà hành
vi vi phạm gây ra cho xã hội mà đặc biệt là cho các NĐT, chính điều này đã dẫn đến
việc các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng gia tăng cả về số
lượng và mức độ vi phạm
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận án Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam hiện nay
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƢƠNG THẢO BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2021 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHƢƠNG THẢO BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Luật kinh tế Mã số : 938.01.07 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2021 LỜI CAM ĐOAN Tác giả cam đoan rằng nội dung được trình bày trong luận án “Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu độc lập của chính tác giả dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy. Việc sử dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học và luận điểm các tác giả khác trong luận án này đều được giữ nguyên ý tưởng hoặc trích dẫn phù hợp theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Phƣơng Thảo MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .............................................. 8 1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu đề tài .................................................... 21 1.3. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu ..................................................... 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 27 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG ......... 28 2.1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ................................................................. 28 2.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung .................................................... 54 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 65 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG ......................... 66 3.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ................................ 66 3.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam .............................. 113 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 139 Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƢ TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM .................. 140 4.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ............ 140 4.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam .......................... 141 4.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ................... 147 4.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ............................................................................................... 161 KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ............................................................................ 174 KẾT LUẬN .................................................................................................. 175 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 177 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 178 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 193 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Ban giám đốc BGĐ Ban kiểm soát BKS Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS Bộ Tài chính BTC Công ty cổ phần CTCP Công ty chứng khoán CTCK Công ty quản lý quỹ CTQLQ Công bố thông tin CBTT Doanh nghiệp niêm yết DNNY Đại hội đồng cổ đông ĐHĐCĐ Điều lệ công ty ĐLCT Hội đồng quản trị HĐQT Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán HHKDCK Tổ chức Quốc tế của các Uỷ ban Chứng khoán (International Organization of Securities Commissions) IOSCO Luật chứng khoán LCK Luật doanh nghiệp LDN Luật đầu tư LĐT Nhà đầu tư NĐT Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development) OECD Quản trị công ty QTCT Quỹ đầu tư chứng khoán QĐTCK Sở giao dịch chứng khoán SGDCK Thị trường chứng khoán TTCK Thông tư TT Ủy ban chứng khoán nhà nước UBCKNN DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Bảng 2.1. So sánh quy định về quyền tiếp cận thông tin ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sĩ [133,134] .................................................................... 80 Bảng 3.1 Số lượng tài khoản nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam dến năm 8/2021 ........................................................................ 114 Bảng 3.2 Xếp hạng chỉ số Bảo vệ NĐT của Việt Nam và các đánh giá về nhóm chỉ số thành phần từ năm 2017 -2020 ..................................... 115 Bảng 3.3 Cải cách chính sách bảo vệ NĐT ở Việt Nam năm 2008, 2012, 2014, 2017 [160] ................................................................................ 116 Bảng 3.4 So sách mức độ bảo vệ NĐT ở Việt Nam với các nước Đông Á – Thái Bình Dương và các nước có thu nhập cao trong khối OECD năm 2020 [161] ..................................................................... 116 Bảng 3.5 Xếp hạng chỉ số bảo vệ NĐT trong khối ASEAN năm 2020 ....... 117 Bảng 3.6 Thanh khoản bình quân trên HOSE từ năm 2011 đến đầu năm 2021[14] ............................................................................................ 122 Bảng 3.7 DNNY đạt chuẩn công bố thông tin từ năm 2011 -2020 [29] ....... 123 Bảng 3.8 Các lỗi vi phạm về CBTT của các DNNY năm 2020 ................... 125 Bảng 3.9 Số liệu hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán từ năm 2016– 2020 [105] ............................................ 133 Bảng 3.10 Nội dung chi tiết chấm điểm về Mức độ dễ dàng khi cổ đông khởi kiện người quản lý ở Việt Nam năm 2020 [161] ...................... 137 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ở bất kỳ một TTCK nào, vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT luôn được xác định là một trong những mục tiêu quan trọng và cơ bản nhất mà cơ quan quản lý nhà nước hướng đến nhằm phát triển TTCK ổn định, công bằng và bền vững. Sẽ không có một TTCK ―mạnh khỏe‖ nếu như quyền lợi hợp pháp của NĐT - những người kiến tạo nên thị trường không được đảm bảo. Nhận thức được vấn đề này, ngay từ khi TTCK Việt Nam ra đời, các cơ quan quản lý nhà nước đã thiết lập cơ chế bảo vệ quyền lợi NĐT trong các văn bản pháp luật về chứng khoán nói riêng và pháp luật về hoạt động kinh doanh nói chung. Ngay từ Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK Việt Nam các nhà làm luật đã xác định việc xây dựng các quy định pháp luật là:“Để tạo môi trường thuận lợi cho việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, nhằm khuyến khích việc huy động các nguồn vốn dài hạn trong nước và nước ngoài, đảm bảo cho TTCK hoạt động có tổ chức, an toàn, công khai, công bằng và hiệu quả, bảo vệ quyền hợp pháp của người đầu tư’’.Điều này càng được khẳng định thông qua nội dung của LCK 2006, LCK 2019, LDN 2014, LDN 2020và các văn bản pháp luật có liên quan. Mặc dù hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NĐT trên TTCK Việt Nam đã bước đầu được xây dựng, củng cố nhưng do nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như LCK, LDN, LĐT, các văn bản dưới luật như nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ tài chính, các quyết định của UBCKNNnên vẫn còn hiện tượng chồng chéo, thiếu sự thống nhất, đồng bộ đặc biệt là vẫn tồn tại một số vướng mắc giữa LCK và các văn bản luật trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại khác như LDN, LĐT, Luật xử lý vi phạm hành chính.[9]. Ngoài ra, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán hiện nay khá nhẹ, tính răn đe không cao, không tương thích với những hậu quả mà hành vi vi phạm gây ra cho xã hội mà đặc biệt là cho các NĐT, chính điều này đã dẫn đến việc các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng gia tăng cả về số lượng và mức độ vi phạm. Bên cạnh đó, hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NĐT trên TTCK nói chung và TTCK tập trung nói riêng còn thiếu sự tương thích với các 2 thông lệ, chuẩn mực của thế giới. Ở Việt Nam, việc bảo vệ quyền lợi NĐT chủ yếu được thực hiện gián tiếp thông qua các quy định pháp luật về duy trì, đảm bảo trật tự của thị trường; qua hoạt động phát hiện và xử lý vi phạm của cơ quan nhà nước mà thiếu đi các biện pháp hiệu quả để NĐT tự bảo vệ quyền lợi hay các biện pháp hướng tới việc bồi hoàn, khôi phục các lợi ích cho NĐT khi bị xâm phạm. Ở các quốc gia phương Tây như Mỹ, Anh, Pháp.hay một số quốc gia trong khu vực như Singapore, Đài Loan, Trung Quốcbên cạnh hệ thống các quy định pháp luật được ban hành để duy trì trật tự và an toàn của thị trường (công cụ bảo vệ gián tiếp) thì các cơ chế bảo vệ trực tiếp quyền lợi của NĐT chứng khoán như thiết lập quỹ bảo vệ NĐT, thành lập tổ chức bảo vệ NĐT, mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hay cơ chế để NĐT tự bảo vệ quyền lợi khi bị xâm phạm bởi hành vi vi phạm (khởi kiện dân sự) rất được quan tâm và quy định cụ thể, chi tiết trong các văn bản pháp luật. Như ở Mỹ ngay từ năm 1970 đã có Luật Bảo vệ NĐT (Securities Investor Protection Act of 1970) là cơ sở cho sự hình thành và hoạt động của Công ty bảo vệ quyền lợi NĐT chứng khoán (Securities Investor Protection Corporation – SIPC), ở Đài Loan có Luật Bảo vệ NĐT năm 2002 (Securities Investors and Futures Traders Protection Act) là cơ sở cho sự hình thành Trung tâm bảo vệ NĐT chứng khoán và các sản phẩm tương lai (Securities and Futures Investor Protection Center – SFIPC), ở Canađa Quỹ bảo vệ NĐT Canada (The Canadian Investor Protection FundCIPF) cũng được thành lập từ năm 1969, Ở Trung Quốc, Tòa án Nhân dân Tối cao (SPC) đã ban hành nhiều thông tư quan trọng về khởi kiện dân sự đối với chứng khoán vào năm 2001,2002, 2003Trong khi đó ở Việt Nam cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có văn bản pháp luật riêng quy định về vấn đề bảo vệ NĐT cũng như thiếu đi sự tồn tại của các thiết chế độc lập bảo vệ NĐT hay cơ chế đặc thù để NĐT tự bảo vệ quyền lợi của mình. Như vậy, có thể thấy rằng khung pháp lý bảo vệ quyền lợi NĐT trên TTCK nói chung và TTCK tập trung nói riêng ở Việt Nam đã bước đầu được thiết lập tuy nhiên chưa t ... Công ty MTM) và 14 đồng phạm trong vụ án thao túng giá chứng khoán, lừa đảo chiếm đoạt tài 201 sản, giả mạo trong công tác... liên quan đến cổ phiếu MTM. Đây là vụ án đầu tiên được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đưa ra xét xử về hành vi thao túng giá chứng khoán.Tòa đã tuyên án phạt tù chung thân đối với bị cáo Trần Hữu Tiệp về tội ―Lừa đảo chiếm đoạt tài sản‖. Cùng tội danh này, 2 bị cáo Vũ Thị Hoa và Nguyễn Lê Trường bị chung mức phạt 12 năm tù. Cùng bị kết án về tội ―Thao túng giá chứng khoán‖, 2 bị cáo Bùi Thiện Lý và Đỗ Hữu Tài đều bị Tòa tuyên phạt 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 5 năm. Đối với nhóm bị cáo phạm tội ―Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức‖, Tòa đã tuyên phạt các bị cáo: Nguyễn Văn Dĩnh 4 năm tù; Nguyễn Thị Hiên, Ngô Văn Hiến, Lê Thị Hằng Nga, Trần Thị Mai Lan bị phạt từ 30 tháng tù treo đến 36 tháng tù treo. Với nhóm tội danh ―Giả mạo trong công tác‖, Tòa đã tuyên phạt các bị cáo: Hồ Xuân Lý, Lê Đắc Hà, Đặng Mạnh Hùng, Nguyễn Thị Hiền, Vũ Thế Vinh, các mức án từ 20 tháng tù treo đến 20 tháng tù giam. 2. Vụ việc thao túng giá chứng khoán KSA (Công ty Cổ phần Công nghiệp khoáng sản Bình Thuận) năm 2019 Tháng 9/2015, KSA- Công ty Cổ phần Công nghiệp khoáng sản Bình Thuận tăng vốn điều lệ từ 373 tỷ đồng lên 1.044 tỷ đồng thông qua việc phát hành thêm 67.056.416 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Trong đó, có 56.056.416 cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu và 11 triệu cổ phiếu chào bán riêng lẻ cho đối tác chiến lược theo Nghị quyết ĐHCĐ thường niên tháng 4/2015. Ngày 7/9/2015, UBCK cấp giấy chứng nhận đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng cho KSA. Quá trình chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu chỉ có Phạm Thị Hinh - nguyên Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Công nghiệp khoáng sản Bình Thuận (KSA) đứng tên mua 1,2 triệu cổ phiếu KSA, không có nhà đầu tư chiến lược mua cổ phiếu. Để được UBCK công nhận kết quả chào bán cổ phiếu và chấp thuận lưu ký toàn bộ cổ phiếu phát hành thêm trên, Hinh lập danh sách phân phối số cổ phiếu phát hành cho 10 cá nhân, công ty là những người thân quen. Để chứng minh dòng tiền phát hành thêm, Hinh nhờ một nhóm người quen khác để vay tiền ngân hàng. Để có số tiền ương ứng là 560,5 tỷ đồng, Phạm Thị Hinh đã đứng ra vay Ngân hàng SHB. Trong đó, Hinh trực tiếp đứng tên vay 59,2 tỷ đồng. Số tiền 501,3 tỷ đồng còn lại, Hinh nhờ người làm thủ tục cho 18 cá nhân khác vay với tài sản đảm bảo là số dư tài khoản của Công ty KSA. Hinh cam kết với những cá nhân này sau khi được UBCK chấp thuận sẽ rút toàn bộ số tiền trên để hoàn trả khoản vay. Để hoàn tất thủ 202 tục, Hinh nhờ 10 cá nhân, công ty đứng tên nhận cổ phiếu, ký các loại giấy nộp tiền, thủ tục chuyển khoản để chuyển số tiền 560,5 tỷ đồng vào tài khoản phong tỏa của Công ty KSA. Ngày 19/11/2015, UBCK có công văn chấp thuận kết quả chào bán cổ phiếu ra công chúng thành công. Theo phương án phát hành, nguồn tiền trên để đầu tư vào các dự án của Công ty KSA. Cụ thể, để trả cho các hợp đồng xây dựng với Công ty TNHH Ngôi nhà đầu tiên, Công ty TNHH Hạnh Vân, Công ty TNHH tư vấn - thiết kế - xây dựng - kỹ thuật thương mại Phú Hòa, CTCP Đầu tư và Phát triển công nghiệp Bảo Thư. Hinh đã chuyển số tiền này cho các công ty trên. Song trên thực tế, những người đứng đầu các công ty này đều là người quen của Hinh và ký các hợp đồng thi công xây dựng, thuê đất với Công ty KSA. Hồ sơ mở tài khoản ngân hàng của các công ty này đều do Hinh trực tiếp mở theo hồ sơ đã ký sẵn hoặc Hinh nhờ các công ty này mở tài khoản ngân hàng và cung cấp thông tin tài khoản kèm chứng từ ký sẵn cho Hinh để Hinh tự điền các thông tin chuyển tiền và rút tiền. Toàn bộ số tiền trên, Hinh tiếp tục chỉ đạo chuyển khoản vào tài khoản của Công ty TNHH Bảo Thư Gò Dầu, Công ty TNHH MTV gỗ Bình Thuận (công ty thành viên của Công ty Bảo Thư), tài khoản của chị gái, chồng sau đó rút toàn bộ số tiền này để thanh toán khoản vay ban đầu cho ngân hàng. Hoàn tất việc hợp thức hóa tiền trên, Hinh trực tiếp ký sổ cổ đông xác nhận số cổ phiếu trên đã phân phối cho 11 công ty và cá nhân. Ngày 26/11/2015, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam đã chấp thuận lưu ký số cổ phiếu trên. Sau đó bà Hinh chỉ đạo Trần Hồng Ngọc liên hệ với Công ty Chứng khoán Maritime (MSI - nay là đã đổi tên), SSI, VSM và cùng các chủ tài khoản gồm 10 công ty, cá nhân trên đến mở tài khoản giao dịch chứng khoán và lưu ký cổ phiếu. Sau khi phát hành, giá cổ phiếu KSA giảm mạnh, tính thanh khoản thấp, Bà Hinh chỉ đạo Trần Hồng Ngọc (SN 1981, nhân viên VSM) lập ra 69 tài khoản. Bà Hinh cũng thỏa thuận với Nguyễn Anh Tuấn (SN 1981), Nguyễn Trọng Hùng (SN 1979) – đều là cựu nhân viên Công ty Chứng khoán Maritime – MSI) sử dụng 69 tài khoản trên liên tục thực hiện việc mua, bán chứng khoán KSA để tạo cung cầu giả tạo trên thị trường nhằm thu hút nhà đầu tư. Từ cuối năm 2015 đến tháng ngày 8/7/2016, hành vi của nhóm người trên đã gây thiệt hại cho 1.496 nhà đầu tư với số tiền hơn 8,1 tỷ đồng. 203 Ngoài ra, 3 công ty chứng khoán gồm Công ty TNHH Chứng khoán Mirae Asset Việt nam, Công ty Cổ phần Chứng khoán Phú Hưng, Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí cho vay margin bị thiệt hại số tiền 761 triệu đồng. 3. Vụ việc làm giả giấy tờ để lạm dụng tài sản của NĐT tại công ty chứng khoán Tràng An: Vụ việc được diễn ra từ năm 2010 tuy nhiên việc giải quyết kéo dài đến tận năm 2019 Năm 2010, do thiếu vốn, Giám đốc công ty chứng khoán Tràng An là Lê Hồ Khôi và các nhân viên thực hiện việc lập khống hồ sơ mang tên các khách hàng mở tài khoản chứng khoán tại công ty dưới hình thức khách hàng ký Hợp đồng vay tiền của các tổ chức tín dụng để đầu tư chứng khoán nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty và trả các khoản nợ ngân hàng trước đó. Khi vụ việc bị vỡ lở, toàn bộ tài khoản của NĐT bị sử dụng lập khống hồ sơ vay đã bị phong tỏa, và phải đến ngày 10/1/2019 TAND thành phố Hà Nội mới tuyên giải tỏa các tài khoản chứng khoán của NĐT bị cầm cố không hợp pháp để trả lại cho NĐT 204 PHỤ LỤC 4 CÁC MÔ HÌNH GIÁM SÁT THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA 1. Mô hình giám sát tại TTCK tại Nhật Bản. Ở Nhật Bản, hoạt động giám sát thị trường được thực hiện bởi 2 chủ thể là Ủy ban giám sát giao dịch chứng khoán (Securities and Exchange Surveillance Commission - SESC) và các tổ chức tự quản (Self-Regulatory Organizations - SROs) trong đó vai trò chủ đạo trong hoạt động này là SESC. Hoạt động giám sát của SESC bao gồm những nội dung cụ thể như sau: Hoạt động giám sát thị trường hàng ngày: Hàng ngày, SESC thu thập thông tin từ công chúng và các chủ thể tham gia thị trường khác, sau đó chuyển nó đến bộ phận chịu trách nhiệm trong SESC để tiến hành xử lý, phân tích (trong một số trường hợp thông tin sẽ được chuyển đến bộ phận có liên quan trong FSA – Financial Services Agency – cơ quan cấp trên trực tiếp của SESC). Căn cứ vào các tiêu chí giám sát thị trường và từ nhiều nguồn thông tin khác nhau, SESC sẽ tiến hành trích xuất thông tin về các cổ phiếu, sau đó kiểm tra các giao dịch bị nghi ngờ có hành vi thao túng thị trường, giao dịch nội gián hoặc lừa đảo, các giao dịch làm giảm tính công bằng của thị trường. Kiểm tra các tổ chức kinh doanh chứng khoán, các tổ chức phát hành chứng khoán và các tổ chức khác có hoạt động trên thị trường. SESC tiến hành kiểm tra các tổ chức kinh doanh chứng khoán, tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức tài chính, tổ chức xếp hạng tín dụng và các tổ chức tự quản. Qua quá trình kiểm tra, SESC sẽ đưa ra các khuyết nghị đối với các đối tượng này khi phát hiện có vấn đề cần cải thiện. Nếu phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng, SESC sẽ đề nghị Thủ tướng và ủy viên của FSA tiến hành xử phạt hành chính đối với các đối tượng này Kiểm tra việc công bố thông tin SESC yêu cầu người có nghĩa vụ công bố thông tin phải đưa ra các báo cáo có liên quan và tiến hành kiểm tra tại chỗ khi thấy cần thiết và phù hợp với lợi ích công cộng và bảo vệ NĐT. Khi phát hiện sai sót nghiêm trọng trong việc công bố thông tin, SESC đưa ra khuyến nghị cho Thủ tướng và ủy viên của FSA tiến hành xử phạt hành chính. Bên cạnh hoạt động của giám sát của SESC còn có hoạt động giám sát của các tổ chức tự quản (SROs) như các sở giao dịch chứng khoán, các hiệp hội kinh doanh và trao đổi công cụ tài chính các chủ thể này cũng tiến hành giám sát các chủ thể kinh doanh chứng khoán, các tổ chức phát hành và giám sát các giao dịch hàng 205 ngày trên thị trường. SESC và SROs có sự phối hợp và trao đổi thông tin chặt chẽ liên quan đến các vấn đề khác nhau trong giám sát thị trường, chẳng hạn như giám sát giao dịch nội gián, giao dịch bất hợp pháp khác, và kiểm soát các chứng khoán niêm yết. Đặc biệt, từ tháng 1 năm 2009, hệ thống ―Compliance WAN‖ - một hệ thống mạng kết nối các công ty chứng khoán trên toàn quốc, sở giao dịch chứng khoán, Hiệp hội đại lý chứng khoán Nhật Bản (JSDA), SESC và Phòng tài chính địa phương đã được đưa vào hoạt động để chuyển các dữ liệu giao dịch chứng khoán điện tử phục vụ trực tiếp cho việc giám sát các giao dịch trên thị trường 2. Mô hình giám sát TTCK của Hàn Quốc: Hệ thống giám sát thị trường chứng khoán Hàn Quốc bao gồm: Giám sát cấp 3: Do cơ quan quản lý nhà nước là Uỷ ban dịch vụ tài chính (Financial Supervisory Commision - FSC) thực hiện giám sát. Uỷ ban dịch vụ tài chính (FSC) được thành lập theo Luật về thành lập Tổ chức giám sát Tài chính là cơ quan thuộc Chính phủ, thực hiện quản lý cấp cao nhất đối với trường chứng khoán. Trong cơ cấu của FSC có hai cơ quan giám sát chuyên biệt trực thuộc là cơ quan Giám sát tài chính (FSS) và Uỷ Ban chứng khoán và hợp đồng tương lai đối với các định chế tham gia thị trường chứng khoán và các thị trường giao dịch có tổ chức (SFC). Giám sát cấp 2: Gồm Sở giao dịch (Korea Exchange - KRX) và Ban Giám sát thị trường (Market Oversiht Commission) thực hiện chức năng giám sát của tổ chức tự quản. Là tổ chức tự quản, KRX có cơ cấu công ty cổ phần, thực hiện nhiệm vụ tổ chức các thị trường giao dịch và giám sát đối với giao dịch của các thành viên Sở giao dịch và hoạt động giao dịch diễn ra tại Sở. Hoạt động giám sát của Ban Giám sát thị trường được thực hiện thông qua hệ thống giám sát giao dịch bất thường COSMOS do Hàn quốc xây dựng theo mô hình hệ thống ICASS (Hệ thống giám sát được hỗ trợ bởi máy tính - Integrated Computer Assised Surveillance System) của NYSE. Giám sát cấp 1: Giám sát của các công ty chứng khoán. Hoạt động giám sát này được thực hiện đối với các giao dịch của nhà đầu tư đặt lệnh qua công ty bằng hệ thống In-house Preventive System. Hiệp hội kinh doanh chứng khoán phối hợp với Sở giao dịch, yêu cầu các công ty chứng khoán thiết lập hệ thống giám sát giao dịch có thể kết nối với nhau. Mỗi quý, KRX đều có yêu cầu công ty chứng khoán phải báo cáo kết quả giám sát. Ngoài những yêu cầu theo quy định, trong trường hợp hiện vi phạm, công ty chứng khoán phải báo cáo KRX để kiểm tra [33,Tr.52-55].
File đính kèm:
- luan_an_bao_ve_quyen_loi_nha_dau_tu_tren_thi_truong_chung_kh.pdf
- kl_thao1.jpg
- kl_thao2.jpg
- TT Eng NguyenPhuongThao.pdf
- TT NguyenPhuongThao.pdf
- Trichyeu_NguyenPhuongThao.pdf